“… mình có còn là người Dao – những người tự nhận mình là Kiềm Miền (người của rừng) nữa hay không?”
Câu hỏi của nhân vật Phin trong truyện mở đầu Vía của rừng dường như chính là mạch trăn trở xuyên suốt của cả tập truyện. Và câu hỏi đấy cũng đồng thời là sợi dây vô hình dẫn mình đến với Nghiệp rừng. Trong quá trình học tập chuyên đề về văn hóa các dân tộc thiểu số, mình tình cờ được một người thầy gạo cội giới thiệu về nhà văn Triệu Hoàng Giang. Sau cuộc trò chuyện ngắn, anh, bằng một sự thấu hiểu của một người có cơ hội rời bản xuống Hà Nội học đại học để mở mang tầm nhìn, đã trao gửi cho mình cuốn sách như một lời mời gọi rằng hãy cùng anh lo chung những nỗi lo của đồng bào Dao giữa thời hiện đại.
Nhà văn Triệu Hoàng Giang sinh năm 1989, là người con của đồng bào Dao. Anh sinh ra tại mảnh đất Phiêng Lằm, một bản thuộc xã Bản Thi, Chợ Đồn, Bắc Kạn cũ (nay thuộc xã Yên Thịnh, tỉnh Thái Nguyên). Khởi đầu sự nghiệp văn học bằng những tác phẩm dành cho thiếu nhi, anh đã sớm nổi danh trên văn đàn với tập thơ đầu tay Chim đón dâu (NXB Kim Đồng). Nhưng rồi, như một cuộc trở về với dòng chảy của nguồn cội, cùng với những điều mắt thấy, tai nghe, thâm tâm cảm nhận về những trăn trở và thử thách mà đồng bào Dao đang phải đối diện, anh “quay ngoắt 180 độ” để viết cho người lớn. Anh viết về chính những con người ruột thịt xung quanh mình, về một cộng đồng đang tìm cách chuyển mình giữa thời hiện đại. Nỗ lực âm thầm đó đã kết tinh thành tập truyện ngắn Nghiệp rừng, ra mắt đại chúng vào năm 2021.
Để rồi, sau khi đã trải qua đủ các mảnh trần tình, những hỉ nộ ai ố được gói ghém trong 16 mẩu truyện của cuốn sách, mình bất chợt rùng mình mà muốn đặt ngược lại cho tác giả một câu hỏi:
“Anh viết Nghiệp rừng để kể về người Dao, hay là kể về chính mỗi người chúng ta?”
Bởi lẽ, dù bối cảnh không gian, văn hóa, tâm thức… xuyên suốt cuốn sách là lấy từ đời sống của bà con Dao. Nhưng những vấn đề được nêu ra trong truyện thì lại không của riêng bất cứ một dân tộc hay cá nhân nào. Trong Nghiệp rừng, Triệu Hoàng Giang đã nêu ra ba cái “nghiệp” chính mà các truyện cùng với các nhân vật trong đó vừa là người gieo giống, rồi cùng lại phải gặt về. Đó là cái “nghiệp” với núi rừng đã bao đời chở che, trở thành biểu tượng để người Dao tự hào mà nói với thế giới rằng mình là Kiềm Miền (người ở rừng). Cái “nghiệp” thứ hai là sự gieo – gặt giữa người với người. Cái nghiệp còn lại là với chính người đã gieo và sau này sẽ phải gặt về mình.
Đơn cử như trong truyện Vía của rừng mở đầu cuốn sách. Chỉ bằng 6 từ ngắn ngủi mà đầy bất an để kết thúc đoạn đầu tiên“rừng Phiêng Luông nguy lắm rồi”, mối xung đột muôn thuở giữa giữ gìn – khai thác thiên nhiên đã được đẩy lên mức kịch tính cao nhất. Hành động chặt hạ gốc Sấu thiêng của Sinh và đám thanh niên đã trở thành nhát chém cuối cùng lên sợi chỉ thiêng liêng giữa người và rừng. Vía rừng không thể chịu đựng được nữa! Vía rừng quyết trả lại “nghiệp” cho Phiêng Luông: Muông thú chẳng còn, suối thác cạn khô, mùa màng thất bát, còn bà con thì khốn đốn đối đầu với thiên tai khi rừng đã không còn sức cưu mang. Từ “nghiệp” rừng trả lại cho người, cộng đồng Phiêng Luông cũng xáo động dữ dội, tạo tiếp những “nghiệp” để gieo lên đầu nhau: Chuyện tình giữa Sinh và Phin bị bố Phin ngăn cấm vì tội phá rừng của Sinh; đám thanh niên sợ bị “nghiệp rừng” quật mà đi tha hương cầu thực, bỏ lại người già, phụ nữ và trẻ em phải gánh chịu hậu quả; những người ở lại có tiền, nhưng rồi nhận ra bao nhiêu tiền cũng không đủ khi mình hóa ra thiếu đủ thứ, thiếu cả những thứ mà khi xưa chỉ cần lên rừng là có; rồi còn những đêm bị khuấy động bởi con trẻ ốm bệnh khóc không dứt…
Mọi người có cảm thấy mô típ này quen không? Hay nó chính là một phản chiếu lên tấm gương con người đối xử với thiên nhiên hôm nay? Những cánh rừng biến mất, nguồn nước ngày một ô nhiễm, môi trường bị hủy hoại bởi đủ các hoạt động khai thác và xả thải… Để rồi lại phải căng mình gồng sức đối phó với thiên nhiên ngày một khắc nghiệt, thứ tưởng như là do tạo hóa tự điều chỉnh, nhưng thực ra là do chính chúng ta gây nên. Những cơn bão ngày một dữ tợn hơn, những trận nắng nóng ngày một kéo dài với nhiệt độ năm sau lại phá kỷ lục năm trước… đem theo những hậu quả không thể đong đếm về sinh mạng và tài sản cho những người ở lại phải gồng mình để khắc phục. Vòng xoáy gieo nghiệp – trả nghiệp là đấy chứ đâu!
Hay như trong truyện Vết bớt, thông qua những chuyện hôn nhân, tình cảm dang dở của Phin (không phải Phin trong Vía của rừng), ta chứng kiến quá trình một con người tự gieo nghiệp, rồi lại nhận lại nghiệp cho chính mình mà không thể nào dứt ra nổi. Lập gia đình một cách vội vã với Lùng chỉ vì đã quá lứa lỡ thì, giữa cả hai đã không thể nào hòa hợp với nhau. Đến khi tan vỡ, Phin tiếp tục lao vào những mối quan hệ chớp nhoáng giữa những vị khách vãng lai, những chuyến đi biệt tích rồi trở về mảnh đất Phiềng Sin. Lớp hào nhoáng bên ngoài sau mỗi cuộc phiêu lưu nào đủ để che đậy mãi? Cái kết tìm thấy Phin ở một nhà hàng miền biển, khuyên thế nào cũng lắc đầu, không trở về, không chỉ là một tiếng thở dài cho một cuộc đời lận đận tình duyên. Nó là lời cảnh tỉnh cho bất cứ ai khi đứng trước chữ tình. Rằng nó không phải là trò đùa để có thể chắp vá chằng đụp, càng không phải là món hàng công nghiệp để có thể vội vã lắp ráp. Vậy mà bao người trên đời vẫn không hiểu, hoặc không chịu hiểu. Đề rồi lại gieo cho nhau bao thất tình lục dục không biết hồi kết…
Dù có những nỗi trăn trở, thậm chí đớn đau, nhưng đan xen giữa những “nghiệp chướng” ấy, sách vẫn còn đó những nghĩa cử cao đẹp, như muốn gieo lại một niềm tin về những “nghiệp” tốt đẹp. Như trong truyện Ký ức mùa săn, nhân dân bản Phiêng Kham tự nguyện giao nộp hỏa thương tự chế cho chính quyền, vừa để không phạm tiếp “nghiệp” sát sinh vô tội vạ, vừa để cứu lấy muông thú chốn rừng sâu. Rồi cảnh nhân dân Phiêng Liềng hân hoan đón điện về bản trong truyện Đuốc lửa đang mang theo một hi vọng những nơi thâm sơn cùng cốc đang sắp sửa được gieo những mầm đổi thay nhờ những ánh điện sắp được thắp sáng… Ngẫm lại, đó chẳng phải là những “nghiệp” tốt đẹp mà chúng ta, dù cho là một cá nhân hay cộng đồng, vẫn đang nỗ lực để gieo mỗi ngày? Không chỉ để sửa chữa lỗi lầm, mà còn để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tương lai?
Mượn một bầu không khí đậm đặc với những Lễ cấp sắc, bữa tiệc rượu, vi vu giữa những miền hư ảo của đồng bào Dao để kể về vòng xoáy “nghiệp quả” không của riêng ai. Dùng bút pháp nhẹ nhàng thiên về trần thuật, không sa đà vào những thi cú trừu tượng. Thế nhưng, đó lại là cách nhà văn Triệu Hoàng Giang tạo nên một Nghiệp rừng đầy gai góc. Để giờ đây, khi nhìn lại hai câu hỏi đã nêu trước đó, thay vì tìm được câu trả lời, câu hỏi thứ ba, khó giải hơn tất thảy, lại nảy ra khi mình viết những dòng kết này cho bài:
“Rốt cục, chúng ta đã làm những gì để có được những nghiệp của ngày hôm nay?”
Ngô Tiến Vinh