HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ TÔI: VẦN VỌNG ĐƯỜNG ĐÔI

Nhân sinh có hai con đường, con đường dùng tâm bước là ước mơ, con đường dùng chân bước là hiện thực. Trong dòng chảy luân lưu của vạn hữu, nhân sinh âu cũng phải sóng bước trên cả hai lối đi ấy để có thể tự vấn và giác ngộ về sự tồn tại của chính mình. Dường như thấu hiểu được nỗi niềm muôn thuở, diễn ngôn du kí “Hồ Xuân Hương và Tôi” của Đông Di bước ra làng văn mong mời gọi độc giả cùng phiêu lưu đến những vùng đất mới, từ đó đi vào con đường chiêm nghiệm nội tại qua những tiếng vọng của vần thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Cuốn sách không chỉ là sự tái hiện tiếng lòng của phái nữ qua chuyến đi đến Nepal, mà còn là một cuộc đối thoại thầm lặng giữa tôi – người phụ nữ đang đọc, với Đông Di – người phụ nữ đang viết, và “Nữ thần” Hồ Xuân Hương qua dòng chảy văn chương để trở thành tiếng nói của muôn đời.

    Với kết cấu “thập nhị nhân duyên” – 12 phần phóng bút về câu chuyện du ngoạn của mình và 38 bài thơ được trích từ cuốn sách “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương” do GS. Kiều Thu Hoạch biên soạn, tác giả đã thể hiện nhịp nhàng chất tự sự qua giọng văn hóm hỉnh, hài hước khi đối đáp với “tên ngạo kiều” Mỹ Lai đến cao trào, vỡ òa cảm xúc khi tri ngộ với công chúa triều Lê qua khoảnh khắc “lên đồng” của Ả Trần. Đôi lúc giọng văn Đông Di mang đậm màu sắc duy tâm khi thể hiện sự bình tĩnh, kiềm chế cơn giận để khỏi phải luân hồi với người khiến mình không vui. Điều đó cho thấy rằng, không phải tản văn rời rạc hay tiểu thuyết hư cấu, cách chọn lựa thể loại truyện kí là một nước đi đúng đắn đủ để thể hiện cảm xúc một cách sâu sắc, vừa có thể tái hiện sống động những sự vật, sự việc mà tác giả đã trải nghiệm. Nhờ vậy, tác phẩm dễ dàng khiến độc giả đồng cảm trước những suy tư và cảm xúc của mình.

    Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn khẳng định: “Chỉ khi có được mối ưu tư trằn trọc một đời thơ, người làm thơ mới thực là thi sĩ”. Và cũng chỉ khi có được “mối ưu tư trằn trọc” một đời văn, người làm văn mới thực là văn sĩ. Trong chưa đầy ba năm “đứa con gái của cây cầu Long Biên lại viết tiếp, lại in tiếp”. Lại thêm một suy tư. Nhiều suy tư là đằng khác. Cái suy tư của tác giả lần này không dừng lại ở bản sắc dân tộc hay văn hóa Thăng Long thành cổ thanh lịch truyền thống, mà còn là suy tư về bình đẳng giới, về luân hồi trong Phật giáo, về hạnh phúc ở những quốc gia kém phát triển, về tình yêu và thơ ca…qua những chuyến đi trải nghiệm thực tế – Một hành trình rong ruổi trong Nepal xứ sở, một quốc gia “không tiềm năng cho tiện nghi” nhưng rất nhiều người muốn đến.

    Sinh ra để trở thành một lữ khách trên con đường luân hồi của vạn vật, con người chúng ta không ngừng đi, không ngừng khám phá những mảnh ghép của thế giới. Ta đi ra bên ngoài để học cái hay ở nơi khác, để hiểu chân lý cuộc sống và còn để bất ngờ. Bất ngờ trước tượng Phật giao hoan Yab – Yum mang ý nghĩa hòa hợp giữa từ bi và trí tuệ để đạt được Phật quả tại Kathmandu. Kinh ngạc trước cách cúng tế thần bằng cách giết động vật của người Hindu. Mỗi chuyến hành trình di chuyển như vậy luôn là cơ hội để “khai tử nhận thức”, giải phóng con người ra khỏi lòng giếng chật hẹp ban đầu. Với cách viết tự sự về chuyến đi của mình, tác giả Đông Di tuy chưa đạt được tầm vóc phổ quát như những cây bút du kí lớn ở Việt Nam như Dương Thụy, Đinh Hằng; hay ở nước ngoài như Paul Theroux, W.G.Sebald nhưng cũng đủ để độc giả cùng chiêm nghiệm nhiều thứ cho con đường thứ hai của mình.

    Đi vào văn chương từ thuở còn thấm mực Tứ Thư – Ngũ Kinh, cụ Nguyễn Du đã cất lên tiếng thở dài: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Manh nha đến thế kỉ thứ 19, phong trào nữ quyền nổi lên khiến nhân loại thấp thỏm vui mừng vì những đổi thay của thời đại văn minh. Nhưng tôi không thể tưởng tượng nổi, đã qua bao nhiêu năm tháng phát triển của nhân loại mà tư tưởng khinh nữ vẫn bị sót lại như một tàn tích cổ hủ. Các dịch vụ tâm linh chỉ có thầy pháp là nam giới đảm nhiệm, tảng đá linh thiêng Golden Rock ở Myanmar cấm nữ giới lại gần, phụ nữ Afghanistan bị cấm lên tiếng bởi chính phủ Taliban …Thật là một thực trạng đáng buồn cho một nửa của thế giới. Điều đó không khỏi khiến Mỹ Lai phải thốt lên câu thơ của Nữ thần: “Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Dù khác thời đại, nhưng ở xã hội phong kiến ngày trước, đã có một “bậc anh hùng” Hồ Xuân Hương dám dõng dạc dám ví mình là “rồng”, “trong  khi các nam văn sĩ thời phong kiến thì một chữ cũng không dám động chạm tới hình tượng của hoàng đế”: “Rồng tắm ao tù từng phận tủi, Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong”. Về phương diện tình yêu, thử hỏi có bao nhiêu người dám dấn thân với chữ “yêu”, dám “yêu” trong xã hội đầy kẻ hủ nho của thế kỷ thứ 19: “Trời đem tài sắc cho trông thấy, Người có phong tình mới dám yêu”. Càng ngẫm nghĩ, tôi nhận thấy thơ của Hồ Xuân Hương bao đời vẫn hay, vẫn sáng, mặc cho bao lời nhận xét của vị học giả phương Tây là “dâm dục”, “phóng đãng” (Bản dịch của Maurice Durand). Tôi tin rằng, nếu Hồ Xuân Hương còn sống mà biết được điều này cũng sẽ nhắc lại câu thơ trường cửu: “Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu”! Thế mới nói, Đông Di đã viết rất đúng: “Thơ ca của bà là những dòng văn chương bất hủ, là hiện thực sinh động của đời sống trần gian”. Dòng văn chương bất hủ ấy sẽ mãi là những tiếng vọng, là dư âm gọi mời người đọc cùng đến để thưởng thức, suy ngẫm đến mai sau.

    Khi đó, hành trình đến với con đường thứ hai bắt đầu: sự giác ngộ về cái tôi nhỏ bé, về sự hòa hợp với cái tôi vĩ đại của vũ trụ. Khám phá bên ngoài chính là cách để ta tìm thấy sự bình an và trọn vẹn bên trong. Đi ra ngoài thế giới để tự hào về dân tộc. Đi ra ngoài thế giới để chiêm nghiệm được vẻ đẹp đượm mùi thời gian của thơ Hồ Xuân Hương. Ở cự li nhìn xa, ta quan sát Hồ Xuân Hương là những “đại tự sự” cao quý như “Bà chúa thơ Nôm”, “Nữ hoàng thơ tình”… nhưng rất mơ hồ, xa vời. Thậm chí, có kẻ còn bán tín bán nghi về sự tồn tại một nữ thi sĩ dám viết những vần thơ khoáng đạt như vậy trong xã hội kìm ép ngày đó. Nhưng bằng việc đi để trải nghiệm của Đông Di, ta càng khâm phục những con chữ vượt thời gian và chân dung của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn một cách rõ nét: “Xuân Hương là một nữ lưu tài hoa, vẻ mặt như hoa đào, nhan sắc như nước thu. Ngàn vàng sao xứng nụ cười duyên. Nàng mà không chết đi, ai mà không mắc lụy. Nàng mà còn sống, ai mà vô tình được?”. Như vậy, để hành trình tinh thần được bắt đầu cần đến sự tiếp sức của hành trình vật chất. Những tương tác ngoại quan gây nên những xung động nội quan, do đó, đi ra bên ngoài là cơ hội để đi sâu vào bên trong và để rèn dũa tâm tính, nhận thức con người.

    Cuộc sống luôn tồn tại cả hai mặt âm và dương, tốt và xấu, thiện và ác. Bản thân nhan đề tác phẩm đã là một cặp nhị nguyên mang tính sóng đôi, “đường đôi”. Đông Di – người phụ nữ hiện đại đọc thơ Hồ Xuân Hương để được đồng cảm. Hồ Xuân Hương – viết thơ để tình cảm của mình được lan truyền. Những đường thẳng song song như vậy cũng có lúc giao thoa, cũng có lúc cân bằng để cùng phát triển và tồn tại, hệt như văn chương nói chung và Cổ Nguyệt Đường nói riêng muốn duy trì bền vững cũng cần sự tham gia của bạn đọc. Sự tham gia ấy không chỉ là việc đọc và thưởng thức, mà còn là sự lan tỏa, chia sẻ và đồng hành. Khi bạn đọc tìm thấy giá trị, tìm thấy chính mình trong từng trang sách, họ sẽ trở thành một phần của tác phẩm, một phần của sự sáng tạo. Chính sự kết nối và tương tác từ cả hai phía – người viết và người đọc – sẽ tạo nên một dòng chảy văn học mạnh mẽ, không ngừng nghỉ, giúp văn chương tồn tại và phát triển mãi mãi, vượt qua mọi giới hạn của thời gian. Hiện nay, thời đại mà văn minh kỹ trị lên ngôi, của văn hóa nghe nhìn chiếm lĩnh thị trường tuy tạo điều kiện tiện nghi, kỹ thuật song lại thiếu vắng văn hóa đọc. Hỏi đến các kinh điển, đâu phải ai cũng có thể mạnh dạn trả lời, bàn luận sôi nổi. Mà một quốc gia thiếu đi sự đọc, nghĩa là mất đi cái gốc rễ tinh thần, tự mình tụt hậu với năm châu bốn bể, với bạn bè quốc tế. Đấy chính là điều kiện để các không gian văn hóa ra đời, các Salon văn chương khai sinh. Thật tự hào khi tại Việt Nam ta, Salon văn chương Cổ Nguyệt Đường ngày nay đã được phục dựng từ đứa con tinh thần của Hồ Xuân Hương từ 200 năm trước. Điều đó đã mang lại chìa khóa để giao lưu đa chiều, bồi dưỡng tri thức và gầy dựng tình cảm với con chữ Việt, qua sách Việt và cùng người Việt Nam.

Lưu Nguyễn Phương Thuỳ