Buổi đầu của một dân tộc không chỉ được ghi lại bằng dấu chân mở đất hay gươm giáo giữ bờ cõi. Mà còn bằng những lời ca, tiếng hát, những mảnh huyền thoại rì rầm bên bếp lửa. Khi ấy, chưa có chữ viết, hay trang sách nào, nhưng văn chương đã khởi sinh trong hình thức tự nhiên nhất: tiếng ru của người mẹ, câu chuyện của người già, lời hò của đôi trai gái nơi bến nước… Nó chẳng bắt đầu bởi một “tác giả”đơn lẻ, mà từ đời sống tập thể, ký ức chung của cộng đồng.

   Trong lớp sương mờ ấy, văn chương còn chưa tách biệt khỏi tín ngưỡng và nhịp sống nông nghiệp. Âm thanh trống đồng và những hoa văn khắc chạm đã thay cho chữ nghĩa, ghi lại một bản trường ca của cộng đồng. Mỗi vòng xoáy khắc trên mặt trống, mỗi cảnh chèo thuyền, múa xoè, giã gạo, đều như câu chữ chưa viết. Đó là một loại văn bản nguyên thủy bằng nhịp và hình.

   Và nếu nhìn thật kỹ giai đoạn ấy, sẽ thấy bóng dáng người nữ không bao giờ vắng mặt. Mẹ Âu Cơ, với bọc trăm trứng, không chỉ kể về một huyền thoại khai sinh nòi giống, mà còn nói về vai trò sinh nở, nuôi dưỡng, và cả việc kiến tạo cộng đồng. Mẹ không chỉ sinh con, mẹ còn cùng cha Lạc Long Quân chia kẻ về núi, kẻ xuống biển. Vai trò người nữ khi ấy có thể ví như chia nửa bầu trời với nam giới.

   Tiên Dung, nàng công chúa con vua Hùng thì lại hiện lên như một tia chớp khác. Nàng dám chọn tình yêu với Chử Đồng Tử, một người thường dân nghèo khó, tình yêu ấy không để lễ nghi ràng buộc. Để câu chuyện, bao đời kể lại, như lời ca ngợi cho tự do tình cảm, cho dũng khí vượt thoát khuôn phép. Từ đó mà không ai có thể nói dân gian ngây thơ; dân gian đã để người nữ bước ra, sống và yêu theo ý mình.

   Đến truyện Tấm Cám, hình ảnh người nữ lại mang sắc thái khác. Tấm đi qua bao lần hóa thân, từ chim vàng anh đến khung cửi, từ cây xoan đến quả thị. Mỗi lần hóa thân là một lần tái sinh, để chứng tỏ sức sống của người nữ không thể bị diệt trừ.

   Nếu thần thoại và cổ tích còn khiến người nữ bước đi trong lớp sương huyền ảo, thì ca dao lại cho họ cất tiếng trực tiếp. “Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.” Câu ca vừa buồn bã vừa kiêu hãnh. Người phụ nữ trong ca dao không ẩn mình, hay mượn lời nam giới, mà tự nói thẳng nỗi niềm. Họ than thân nhưng cũng không ngại phơi bày khát vọng. “Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.” Ở đây, ta không chỉ thấy sự cam chịu, mà còn thấy cả sự tỉnh táo, ý thức về số phận, và khát khao đổi thay. Nếu ngày nay ta hay gọi là “nữ quyền” thì e là hơi gượng nếu áp vào thời kỳ đó, nhưng chắc chắn nó là “những tiếng nói ban sơ” của phái nữ trong văn học Việt.

   Huyền thoại, truyền thuyết và ca dao còn lưu giữ một tinh thần quan trọng: sự tự do thuần túy. Đó là tự do hòa vào thiên nhiên, không bị ranh giới pháp luật hay lễ nghi giam cầm. Ví như khi Tiên Dung chọn Chử Đồng Tử, nàng tự do với tình yêu. Như khi mẹ Âu Cơ chia con, bà tự do với quyết định. Khi những cô gái cất lời ca dao, họ tự do với nỗi lòng, không ngại phơi bày khát khao hay uất ức.

   Trong buổi đầu, người nữ được đặt ở trung tâm huyền thoại. Họ mang bọc trăm trứng, gieo giống nòi, cất tiếng hát nuôi dưỡng mùa màng. Nhưng dòng chảy lịch sử không đứng yên. Khi bóng dáng phụ quyền dần bao trùm, hình tượng ấy thu hẹp lại, để nhiều người nữ về sau chỉ còn hiện lên trong nỗi bi kịch, hay trong sự nhẫn nhục lặng thầm. Những câu chuyện dân gian vì thế cũng là tấm gương, phản chiếu biến động sâu kín trong đời sống cộng đồng.

   Và hôm nay, khi ta đọc lại một thời kỳ ban sơ của văn chương Việt, ta không chỉ nhìn về quá khứ, mà còn thấy chính mình trong đó. Một cô gái hiện đại có thể vẫn thấy mình trong thân phận Tấm, phải vượt qua nhiều lần hóa thân để sống đúng với bản ngã. Một chàng trai hôm nay có thể vẫn nghe thấy tiếng vọng của Chử Đồng Tử, giữ tròn hiếu đạo ngàn đời. Và một người mẹ hôm nay, khi ru con ngủ, có thể vẫn đang lặp lại một giai điệu xa xưa, từng được cất lên bên bếp lửa của tổ tiên.

   Nếu bạn đọc đến đây và muốn lần theo dấu vết ban sơ ấy, có thể bắt đầu từ vài cuốn sách quen mà lạ sau:

   “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của Nguyễn Đổng Chi. Nơi bạn sẽ gặp lại Tấm, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử… trong nhiều dị bản. Mỗi nhân vật bước ra với nhiều gương mặt khác nhau, phản chiếu trí tưởng tượng vô tận của dân gian.

   “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm. Một bản đồ sơ khởi, dẫn từ dòng suối truyền khẩu đến con sông chữ nghĩa.

   “Tuyển tập ca dao – tục ngữ” Đinh Gia Khánh, Nguyễn Xuân Kính… Để lắng nghe nhịp tim của người dân qua bao thế hệ, đặc biệt là giọng nói nữ tính đầy sức nặng.

   Hoặc đơn giản, bạn chỉ cần mở bất kỳ truyện thơ Nôm khuyết danh nào. Dù đã thuộc trung đại, nhưng vẫn còn phảng phất âm hưởng kể chuyện dân gian

Thanh Ngân