Đã từng có một thời kì văn chương được lắp thêm một lớp kính màu đẹp đẽ để che đi hiện thực dưới làn bom đạn mịt mù đầy đen tối, giấu đi sự khủng hoảng sụp đổ nơi số phận người. Nhưng với Võ Thị Hảo, thấu kính của chị khước từ màng lọc ấy mà trung thực, dũng cảm phơi bày gam màu cuộc sống xám xịt, hỗn loạn bao nét bi kịch của những thân phận ở bên lề ngòi bút thời bấy giờ. Và rồi, truyện ngắn “Người sót lại ở rừng Cười” được trình lên văn đàn tạo nên cơn chấn động dư luận, khi có một nhà văn dám đặt ra câu hỏi về đời sống tâm lý, tình cảm đầy những đau khổ, giằng xé của những người phụ nữ trong và sau khi bước ra khỏi cuộc chiến – một khuôn mặt khác của con người cứ thế hiển lộ trong tâm trí ta.
Dưới lớp ngôn từ của Võ Thị Hảo là số phận của những nữ thanh niên xung phong coi giữ một kho quân nhu tại Trường Sơn. Họ bị cô lập trong “vòng tay ma quái của rừng sâu” và rồi cũng bị chìm khuất lãng quên trên trang giấy trắng mực đen. Năm người con gái của rừng Cười, đặc biệt là Thảo phải đối mặt với sự tàn nhẫn nơi chiến trận, sự rạn vợ trong tinh thần và sụp đổ trong niềm tin sống khi rời khỏi khu rừng.
Những năm tháng chiến tranh đã cướp mất sức sống của tuổi trẻ, vẻ đẹp của thiếu nữ dù cho họ cố gắng chống cự thế nào, “ rừng vẫn cướp mất mái tóc của họ” và chỉ để lại những dúm tóc xơ xác cùng tiếng khóc đắng cay. Ta càng kinh hoàng hơn khi chứng kiến một thiên nhiên nhuốm hơi thở khốc liệt thời chiến dồn ép những người con gái thuần khiết, trong sáng mắc phải bệnh Cười – thứ bệnh tâm lý vì thiếu vắng đàn ông. Sống trong không gian thưa vắng bóng người, bao phủ là núi rừng hoang dã tiềm ẩn mối hiểm nguy từ quân địch khiến cho nỗi cô đơn, lo sợ, khát khao hơi ấm người trong họ bị đẩy lên đỉnh điểm. Để rồi những cô gái đánh mất cái cười tự nhiên, đánh mất quyền làm chủ chính mình mà trở về bộ dánh nguyên thủy nhất, không còn nữ tính. Họ như những “con vượn trắng” trần truồng, lõa lồ, điên rồ với tiếng cười “méo mó, man dại” đầy ghê rợn, tuyệt vọng. Trong thời hiện đại, ta gọi đó là bệnh Hysteria – rối loạn phân ly mà dưới sự khai thác của văn học, khối u của căn bệnh ấy chính là những vết thương, sang chấn tâm lý của con người mà chiến tranh gây ra.
Đâu phải những người con gái ấy không gắng gượng vượt thoát khỏi thảm cảnh, họ đã từng ký thác niềm hi vọng nơi “chàng hoàng tử hào hiệp thủy chung” trong mối tình được kể vừa thực vừa ảo của Thảo. Cái lòng si mê của năm cô gái “không hy vọng cắt nghĩa nổi trong thời bình” mà chỉ “có ai đã từng qua chiến tranh, trải qua nỗi cô đơn đặc quánh, qua cảm giác đang cựa quậy giữa chốn ráp ranh, giữa địa ngục và trần gian mới hiểu nổi”. Chàng trai ấy hiện lên như đốm lửa rực sáng vun đắp niềm tin vào những điều tốt đẹp trong tình yêu sẽ luôn tồn tại, bất biến trước sợ xô xát của chiến tranh và chính họ cũng sẽ được hưởng thứ hạnh phúc đó mai sau. Nhưng rồi, thân xác của họ vẫn đổ gục xuống tan nát trong khi khát khao còn dang dở, ánh sáng từ đốm lửa đó cuối cùng vẫn bị hiện thực nghiệt ngã vùi dập đến lụi tàn. Bốn cô gái không thể chống chọi lại họng súng của địch đã “dành những viên đạn cuối cùng cho mình để tránh ô nhục”. Ngay cả khi chết đi rồi, họ vẫn là những con người vô danh, đã sống, chiến đấu và hi sinh trong thầm lặng.
Câu chuyện của họ vẫn chưa kết thúc, mạch ngôn từ cứ tuôn dài lôi kéo ta sang một nỗi xót xa khác. Khu rừng Cười năm nào giờ chỉ còn Thảo sót lại, mang theo tàn dư của thời chiến nơi thể xác và tâm hồn tiến vào giữa xã hội thời bình. Mang thân xác đã bị vắt kiệt, Thảo mắc kẹt trong những ám ảnh quá khứ, hình ảnh “tóc rụng như trút, rụng đầy khuôn ngực đã bị đam nát của chị Thắm” cứ hiện lên dai dẳng, bám riết những giấc mơ của chị. Để rồi cái cân tâm lý của người sống sót duy nhất đè nặng lên Thảo, khiến chị rơi vào vòng xoáy mâu thuẫn nặng nề.
Một bên là ý thức sống trách nhiệm, xứng đáng với sự hi sinh của đồng dội, nghe theo lời chị Thắm căn dặn “không để đàn ông thương hại” đối nghịch với khát vọng hạnh phúc, khát khao yêu và được yêu vốn luôn tồn tại trong cõi vô thức, bản năng của con người. Một bên là lòng cao thượng, sống đạo đức để lưu giữ hình mẫu lý tưởng, hoàn mỹ của Thành, nguyện hi sinh cho danh dự và hạnh phúc của anh nhưng gặp phe phản đối là đôi chút ích kỷ, thèm khát trong tình yêu. Dù đã dự cảm được khoảng cách vô hình giữa hai người đến từ hai thế giới nhưng nỗi ám ảnh vì cô đơn, lạc loài, lo sợ, lòng kiêu ngạo khiến Thảo vẫn chẳng thể dứt ra khỏi những đấu tranh nội tâm ấy.
Nhưng rồi dường như tiếng nói của lý trí đã thắng thế, Thảo lựa chọn giải thoát cho Thành “khỏi lòng chung thủy của anh” bằng cách làm cao cả: từ chối vì đã yêu người khác. Chị nhận cái tiếng xấu phụ bạc về mình, bình tĩnh chịu đựng những cái nhìn xa lánh “chê trách dè bỉu”, “coi như ổ dịch” từ mọi người chỉ để Thành nhẹ nhõm buông bỏ “nghĩa vụ”, theo đuổi hạnh phúc riêng mà vẫn giữa trọn ánh sáng đẹp đẽ, thủy chung của đạo đức. Nhà văn bằng cái nhìn độc đáo đã nhận ra sự không bằng lòng với lựa chọn ấy từ thẳm sâu trong tâm hồn người con gái.
Cho đến đêm tân hôn của Thành – thời khắc Thảo biết mình vĩnh viễn mất đi cái ngày chị từng “khát vọng đến cháy bỏng”, giục giã chị “cố nhoài ra khỏi cuộc sống hoang dã chốn rừng sâu”. Giờ đây, sức mạnh của cõi vô thức trỗi dậy mãnh liệt. trong trạng thái gần như mất quyền kiểm soát ý thức, Thảo bật lên tiếng cười man dại – tiếng cười vốn chỉ xuất hiện trong thời chiến mà chị những tưởng bản thân đã thoát khỏi lại vang lên đầy tê tái ngay giữa thời bình. Hóa ra căn bệnh tâm lý quái gở ấy sẽ đeo bám không buông những con người đã đi qua chiến tranh, gây ra lỗ hổng khiếm khuyết trong tâm hồn và cắt đứt mọi cơ hội hòa nhập với đời thường của họ.
Võ Thị Hảo đã vẽ nên một cái kết mở đầy ám ảnh gợi ra những liên tưởng, suy đoán ngập tràn sắc thái bất an, day dứt trong Thành và chính người đọc. Sự ra đi của Thảo và những lá thư của người tình bịa đặt để lại khiến người ở lại không trọn vẹn hạnh phúc. Câu nói của Thành cuối tác phẩm như vang vọng không lời giải đáp “Rừng Cười ơi! Đã no nên máu và nước mắt, lẽ nào ngươi cướp nốt của ta con chim yến nhỏ nhoi!”. Âm hưởng khẩn thiết, não nùng làm ta phải ngoái đầu nhìn lại, nhìn lại một lần nữa hiện thực thảm khốc, tàn nhẫn của chiến tranh, của những góc khuất chìm lấp nơi tâm hồn người. Năm tháng của bom rơi đạn lạc đã reo giắc nỗi bất hạnh cho những phận người phụ nữ, khiến họ không bao giờ có thể hòa nhập với đời thường. Chiến tranh đã giết chết những người lính trẻ, nhưng khủng khiếp hơn, nó phá hủy thân thể phụ nữ, tượng trưng cho nguồn sống và tương loai loài người.
Càng cận kề thời khắc lịch sử thiêng liêng của dân tộc, ta càng thấu hiểu hơn câu nói: ““Tự do hoà bình không phải dễ, có được như bây giờ cố mà giữ…”. Khi cái ác vẫn còn ngự trị trong bóng tối, lăm le cướp đi ánh sáng, khi vẫn còn những bộ mặt vô cảm quay lưng với mọi bất hạnh trên đời thì chừng ấy, con người vẫn phải đấu tranh vì hạnh phúc, vì tương lai tốt đẹp hơn.
Phạm Hải Nga