Khó để tóm tắt toàn bộ nội dung, giá trị tư tưởng, văn hoá, thẩm mỹ cũng như những cảm xúc riêng tôi về thiên tiểu thuyết đồ sộ này trong một bài viết. Song, tôi vẫn muốn viết mấy dòng tản mạn để lan tỏa Hồng Lâu đến bạn đọc tứ phương, với hi vọng trong trăm tầng nghĩa, bạn nghiền ngẫm được điều gì cho riêng mình.

“Hồng Lâu Mộng” là một trong Tứ đại danh tác của Trung Quốc, được viết vào đời nhà Thanh, kể câu chuyện lớn về giấc mộng của đời người, câu chuyện nhỏ về thịnh – suy, thực – giả của gia đình đại quý tộc Thanh triều và những câu chuyện nhỏ hơn về tài hoa và số mệnh của những người con gái trong khuê các. Truyện mở đầu bằng truyền thuyết Nữ Oa vá trời, sót một viên đá, về sau được đưa về cõi tiên giữ chức coi vườn, bón tưới cho cây thần Giáng Châu. Đá có ơn với cây, kết thành duyên nợ, thế nên cả hai đầu thai làm người để trả mối duyên nợ ấy: đá là Bảo Ngọc, cây là Đại Ngọc. Chính từ đó mà gây ra biết bao chuyện sau này. Bảo Ngọc vốn là viên minh châu của Giả phủ, sống giữa đám a hoàn đẹp người đẹp nết như Tình Văn, Tập Nhân, sau lại sống trong Vườn Đại Quan, từ nhỏ đã quấn quýt với Đại Ngọc. Giả phủ lúc đó còn có người chị họ là Tiết Bảo Thoa – xinh đẹp, mực thước như tiêu chuẩn đương thời, gây nên chuyện dằn dỗi “hễ gặp cô chị, lại quên khuấy cô em”. Nhưng rốt cuộc, “ngàn vàng dễ kiếm, tri kỷ khó tìm” – người duy nhất cùng tư tưởng với Bảo Ngọc chỉ có em Lâm, nên cậu Bảo dứt khoát: “Ai rằng vàng ngọc duyên ưa/ Ta quên cây, đá, thề xưa được nào” (Chung thân ngộ). Nhưng cuối cùng, mối duyên cây đá kết thúc bẽ bàng khi Bảo Ngọc bị lừa lấy Bảo Thoa, còn Đại Ngọc chết tức tưởi (Lược trích và bổ sung phần tóm tắt của GS. Phan Văn Các).

Bình diện phản ánh của “Hồng Lâu Mộng” quá rộng lớn, mỗi nhà phê bình, nghiên cứu, mỗi độc giả đều có những nhận xét và xúc cảm riêng. Có lúc, người đời nhìn nó như tiểu thuyết diễm tình, kể những chuyện gió trăng, trai gái; có lúc, người đời dùng góc nhìn chính trị, băn khoăn liệu Bảo Thoa có đại diện cho Thanh triều, Đại Ngọc phải chăng là biểu tượng của Minh triều trong dĩ vãng. Trong “Giáng động hoa chủ”, Lỗ Tấn cũng viết về “Hồng Lâu Mộng” rằng: “Nhà Đạo xem thì thấy dâm, tài tử xem thì thấy vương vấn, nhà cách mạng xem thì thấy chống Mãn Thanh, nhà lưu ngôn xem thì thấy việc kín trong cung vi”. Thiết nghĩ không thể bao hàm tất cả giá trị của Hồng Lâu, cũng không thể làm hài lòng tất cả bạn đọc trong khuôn khổ bài, người viết xin mạn phép chỉ đi vào phân tích những khía cạnh tác động nhiều nhất đến bản thân người viết.

Đối với tôi, điều làm tôi ấn tượng bậc nhất – bên cạnh vô vàn giá trị khác của tác phẩm, chính là sự trân trọng phụ nữ, được thể hiện rõ ràng qua cách khắc hoạ những nhân vật nữ, cũng như qua Giả Bảo Ngọc – “người phát ngôn” của tác giả trong tác phẩm. Đầu tiên, Tào Tuyết Cần đã để những nhân vật nữ được sống và được kiêu hãnh như những cá nhân độc lập, trong một xã hội nam trọng nữ khinh, đàn bà không thể sống thiếu cánh mày râu.

Trái ngược với những người đàn ông trong Giả phủ được khắc hoạ nhiều khiếm khuyết, các cô gái trong Hồng Lâu đẹp từ dung mạo, tác phong đến cốt cách – như Đại Ngọc “vẻ thư nhàn hoa rọi mặt hồ/ dáng đi đứng liễu nghiêng trước gió” (Tán Lâm Đại Ngọc), như Bảo Thoa “da dẻ nõn nà, đi đứng đoan trang”, như Vương Hy Phượng “mắt phượng, mày cong lá liễu, khổ người óng ả, dáng điệu phong lưu”. Hay đến cả chúng nha hoàn như Tình Văn cũng đẹp người đẹp nết, “trăng cao khó gặp, mây đẹp dễ tan/ lòng sao cao quý, phận lại đê hèn” (Hựu phó sách đề vịnh chi nhất – tả Tình Văn). Mà có chăng cũng không chỉ dung mạo hay cốt cách, đến cả tài năng, đám quần thoa những lấn lướt vài phần. Lâm Đại Ngọc tài năng thi ca xuất chúng, lên bảy lên tám đọc xong Tứ thư, viết nên “Táng hoa từ” lãng mạn bậc nhất trong “Hồng Lâu Mộng”. Vương Hy Phượng, tính toán lo xếp việc nhà đâu ra đấy, đến Tần Khả Khanh lúc lâm chung cũng khen ngợi: “Thím là bực anh hùng trong đám phấn son, ngay bọn con trai mũ cao áo dài cũng chẳng hơn được”. Các cô gái trong “Hồng Lâu Mộng” mỗi người một vẻ, nhưng người nào người nấy đều có cái đẹp cái hay riêng. Giống như Nguyễn Du miêu tả Thuý Kiều, Thuý Vân, Tào Tuyết Cần cũng thông qua miêu tả mà cho thấy sự ngưỡng mộ và tôn vinh của mình đối với các nàng.

Khen ngợi là một chuyện, song điều làm tư tưởng của Tào gia nổi bật hẳn lên là sự tôn vinh ấy không có toan tính. Tào gia khen cô Lâm, thích cô Lâm vì bản thân cô thông minh, tài hoa và phóng khoáng, chứ không phải vì cô là “hình mẫu lý tưởng của đàn ông”, “một thê tử, thiếp thất tài sắc vẹn toàn”. Tiên sinh yêu cô Bảo vì cô mực thước, hiếu thảo, nết na, chứ chẳng phải vì cô “vượng phu ích tử”. Nghĩ đơn giản, đó là một tình cảm trong sáng và đáng quý. Nhìn sâu hơn vào bối cảnh xã hội, ta lại càng thấy điều đó đáng quý gấp bội. Ngay cả trong thời đại hiện nay, khi mà tư tưởng bình đẳng giới, nữ quyền đã lan rộng hơn, chúng ta vẫn có thể bắt gặp vô vàn những sản phẩm truyền thông, những tác giả nhìn nhận và miêu tả phụ nữ dưới góc nhìn tình dục hoá (sexualize) hay nhãn quan nam giới (male gaze) – tức là đánh giá phụ nữ qua góc nhìn đàn ông, bằng việc “liệu người phụ nữ ấy có làm hài lòng đàn ông không” mà vô tình tước đi quyền được quyết định giá trị của mình, được đánh giá một cách độc lập của người phụ nữ. Ấy thế mà cách đây vài trăm năm, được nuôi dưỡng bởi một xã hội nam trọng nữ khinh, Tào Tuyết Cần đã làm rất tốt trong việc để những nhân vật nữ được đẹp, được sống như những cá thể độc lập, thậm chí hơn hẳn chúng tu mi. Bấy nhiêu có lẽ cũng đủ để thấy tư tưởng vượt thời đại của Tào gia.

Căn cứ tiếp theo để làm rõ sự trân trọng phụ nữ của “Hồng Lâu Mộng” là những phát ngôn của Giả Bảo Ngọc. Có thể nói, “Hồng Lâu Mộng” như một tự truyện của tác giả, còn nhân vật Giả Bảo Ngọc là hoá thân của cái tôi tác giả, là nơi tác giả gửi gắm những suy tư, phán xét của mình về cuộc sống xung quanh. Vậy, Bảo Ngọc đã nói gì? Ở hồi hai, Tử Hưng đã kể lại với Giả Vũ Thôn về câu nói kỳ quặc của Bảo Ngọc lúc nhỏ: “Xương thịt của con gái là nước kết thành; xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng khoan khái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy”. Hay như trong hồi hai mươi: “Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn cả vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của đất trời, đều chung đúc vào con gái, bọn con trai chỉ là cặn bã bẩn đục mà thôi. Vì thế, cậu ta cho tất cả con trai là hạng thô tục, có cũng được, không cũng chẳng sao”. Cả hai lần này và nhiều lần khác, “con gái” trong suy nghĩ của Bảo Ngọc đều gắn với sự trong sáng, khoan khoái – “nước” là cội nguồn của sự sống, sạch nhưng dễ bị vẩn đục, giống người thiếu nữ thuần khiết nhưng dễ bị tổn thương. Còn “con trai” là những kẻ vẩn đục nhuốc nhơ – “bùn” gợi cảm giác nặng nề, đục ngầu, vừa là sự chê bai nam giới thô lỗ, vừa là lời phê phán nền văn hóa gia trưởng. Nhìn qua, tưởng chừng thiên lệch, nhưng nếu đặt những quan niệm đó vào bối cảnh đương thời, chẳng phải đó là một sự đảo ngược các giá trị truyền thống, đả kích xã hội gia trưởng sao?

Tuy vậy, vẫn có một số góc nhìn hoài nghi và phản biện về nữ quyền trong “Hồng Lâu Mộng”. Không tiện bàn sâu, song vẫn nên gợi ra để độc giả suy nghĩ: Liệu Hồng Lâu trân trọng phụ nữ, hay là trân trọng một “hình mẫu” phụ nữ, còn những người phụ nữ lệch chuẩn khác như Triệu di nương, vú Lý bị miêu tả tiêu cực thay vì nhận được sự cảm thông, khi mà những người phụ nữ đã có chồng, qua thời con gái như Phượng thư hay Lý Hoàn xếp gần chót trong “Kim lăng thập nhị thoa chính sách”, chỉ sau nàng Khả Khanh vướng án lả lơi? Vậy thì phải chăng sự khen ngợi của Giả Bảo Ngọc vẫn gắn liền với “nhãn quan nam giới” – chỉ là khác với cách gắn nhãn thông thường – điều hoàn toàn có thể xảy ra trong xã hội mà những ngòi bút nữ chưa thực sự có tiếng? Bên cạnh đó, Bảo “ghét con trai” và “thích con gái” là một sự đảo chiều định kiến, nhưng bản thân đảo chiều đó có phải phá bỏ cấu trúc gia trưởng chăng nó vẫn giữ logic phân loại và giá trị theo giới tính, chỉ đổi bên nào “cao” và bên nào “thấp”?

Bấy nhiêu nhiêu có lẽ chưa đủ để bao hàm được một góc nhỏ về khía cạnh nữ quyền trong tác phẩm, chứ chưa nói đến bao khía cạnh văn hoá, xã hội, triết học, phân tâm học khác, nhưng thiết nghĩ trong khuôn khổ cuộc thi thì đã nên dừng bút, trả lại không gian cho bạn đọc. Hy vọng bạn đọc sẽ bắt đầu cuộc hành trình của riêng mình, để tìm được cho bản thân chút gì đáng giá trong tác phẩm lạ lùng được chăm chút tâm huyết đến sức cùng lực kiệt:
“Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết
Cay đắng mười năm khéo lạ lùng.”
(Đệ nhất hồi tiền thi)

Nguyễn Ngọc Cát Tường