“Đừng tự tin nói học văn là học làm người.” ( T.S. Trần Ngọc Hiếu)

Tôi đã từng ghét một người vì một hành động xấu của họ, và cũng đã từng nhanh chóng ấn tượng tốt với một người chỉ một hành động tốt của họ, nhưng có lẽ đã hoàn toàn thay đổi khi tôi đọc được tác phẩm : “Crossing The River” hay chính là “Sang Sông” của Nguyễn Huy Thiệp, mà người ta vẫn thường nhắc tới ông đó là một “hiện tượng” lạ của văn đàn. Văn học, thật sự đã làm tôi phải ngồi lại suy nghĩ về chính góc nhìn của mình.

Truyện bắt đầu bằng, một chuyến đò qua sông như những chuyến đò bình thường khác. Chuyến đò qua sông ấy có 11 người cả thẩy gồm : nhà sư, nhà giáo, nhà thơ, hai mẹ con, một cặp tình nhân, 2 tên buồn đồ cổ, tên trộm và chị lái đò. Chuyện chẳng mảy may đề cập đến tên tuổi, ngoại hình, ta thấy rõ khuynh hướng “hiện đại chủ nghĩa”, mất dần đi một nhân vật trung tâm, thể hiện góc nhìn một chiều. Tác phẩm khắc hoạ những cá nhân đa ngã biểu hiện tâm tình phức tạp và đa dạng. Chuyến đò ấy, gồm những con người khác nhau, tuổi tác khác nhau, nghề nghiệp khác nhau, coi như đủ các thành phần trong một xã hội cơ bản, hội tụ lẫn lộn thiện – ác, tốt – xấu, trên hành trình qua sông. Vị khách làm phá vỡ sự yên tĩnh của chuyến đò đầu tiên là hai tên buôn đồ cổ, một lên dắt chiếc xe máy lên đò, tên còn lại với chiếc bình cổ được bọc kỹ càng trong tay ngồi cạnh nhà sư đang kể chuyện cho nhà giáo về đức Bồ Đề Lạt Ma. Nhà thơ và cậu bé gọi những con cá dưới sông là “cá thần tiên”. Chuyến đò đang chuẩn bị khởi hành thì có bóng dáng một tên cao gầy xuất hiện, làm nước sông bắn lên. Nhà sư thấy dính một ít nước lên áo cũng đã thốt lên : “A Di Đà Phật”, tên đó đúng theo như lời nhà giáo lẩm bẩn, hắn chính là một tên cướp. Tên cướp quay lại xin lỗi, tiện thể bông đùa mấy câu.Tiếng chèo khua khe khẽ, ông giáo đang bất mãn một điều gì đó, khi liên tục nhận định với nhà sư: “mọi thẩy là súc vật hết, cả sự chung tình cũng là súc vật, ý thức hướng thiện cũng là súc vật nốt”. Chuyển cảnh đến nhân vật thiếu phụ (mẹ cậu bé), đã nhìn thấy cặp tình nhân dở trò ngay trên đò, chị ta liền rủa thầm: “đồ đĩ”, cô gái thấy vậy cũng trâng tráo nhìn vào mặt thiếu phụ nói: “ừ, thì đĩ”. Tên buôn đồ cổ ngồi cạnh ông giáo, có lẽ vì ngủ thiếp đi, lên làm chiếc dây buột ra để lộ chiếc bình, ông giáo ngắm nghía và không ngừng thán phục. Còn nhà sư, ngồi cạnh đấy sau khi biết giá trị chiếc bình cổ có thể từ thời Lý Bí, Khúc Thừa Dụ, mắt nhà sư sáng lên giống hệt dục vọng, nhà sư chạm vào, nhận định số tiền nếu bán đi chiếc bình cổ này. Nhà thơ thấy vậy cũng khám xét chiếc bình và kể về sự tích của nó. Tên buôn đồ cổ còn lại nhặt lấy tập giấy của ông giáo, có viết mấy câu, chữ ông giáo rất tươi. Nhưng ông giáo chua chát nói “ văn tốt, chữ tươi thì có nghĩa lý gì”.

Chú bé có vẻ cũng tò mò vì chiếc bình, mà đã đút tay vào.Quả đúng như thiếu phụ lo lắng cho con mình, cậu bé không rút tay ra được. Chỉ còn một thôi chèo nữa là đò cập bến, mọi người trên thuyền lúc này đều vậy quanh lại cậu bé để nghĩ cách. Tên buôn đồ cổ đã cố gắng đến kéo chiếc bình ra khỏi tay cậu bé, thế nhưng không thành, thấy vậy nhà giáo mới bông đùa: “chỉ có cách là chặt tay cậu bé, để lấy chiếc bình, hai là đập chiếc bình để cứu cậu bé”. Tên buôn đồ cổ, có lẽ hết kiên nhẫn, hắn cầm con dao kề lên cổ cậu bé, một vài giọt máu đã chảy xuống. Người thiếu phụ khóc lóc thảm thiết, xin tha cho con mình, chiếc bình theo nhận định của tên buôn đồ cổ đáng giá “một cây.” Chị đã tháo chiếc nhẫn ở tay ra,thấy vậy chàng trai ( đôi tình nhân) cũng tháo chiếc nhẫn ở tay mình ra để cầu xin hắn tha cho cậu bé. Lúc này tên cướp sấn vào, một cách đột ngột, trong túi hắn rơi ra những đồ nghề chẳng lương thiện chút nào : một lưỡi lê, còng số tám, cuốn lịch xem ngày, chiếc khúc côn nhị, chùm chìa khoá,…Hắn đập chiếc khúc côn nghị lên tay và nói: “Việc đã lỡ rồi, coi như đi buôn lỗ đi”, hắn nửa đùa, nửa thật còn nói: “trẻ con là tương lai đấy, làm gì cũng phải nhân đức hàng đầu”. Và rồi, ngay lúc này, chiếc côn nhị bổ mạnh làm vỡ chiếc bình. “Vô ích” hắn thản nhiên nói vậy, rồi nhảy lên bờ xoay chiếc côn nhị trên tay, và bước đi. Ông giáo bàng hoàng đầy cảm khích tên cướp, phong cho hắn là một “anh hùng”, “nhà cách mạng”, “nhà cải cách”. Mọi người dần lên bờ, bóng chiều tan dần, còn mỗi nhà sư ở lại cuối cùng, dường như trong lòng nhà sư có tâm sự gì đó, ông đã bảo chị lái đò cho ông quay về bờ bên kia. Trăng đã lên, trên con thuyền ấy, nhà sư thì thầm đọc thần chú “Gate gate ! Para gate! Para para san gate”.

Thoạt nhìn, tôi thấy đó chỉ là một tình huống không có cao trào, thậm chí có không miêu tả diễn biến tâm lý, mà chỉ đơn giản là những câu chuyện rời rạc, và rồi họ cùng phải đối diện với vấn đề cậu bé kẹt tay trong chiếc bình cổ. Một nhà sư thuộc lòng kinh sách , những câu chuyện về Đức Phật, vẫn còn nổi lên tia dục vọng khi nhìn thấy vật chất, một nhà giáo chua chát khi ruồng bỏ chữ nghĩa của mình, và có những lời nói vô sỉ , một nhà thơ đáng nhẽ phải đề cao sự thật, nhưng lại nhận định những con cá đang bơi là “cá thần tiên”,cặp tình nhân đã dở trò đồi bại trên thuyền, nhưng trong lúc cấp bách, chàng trai đã tháo chiếc nhẫn cầu xin tha mạng cho cậu bé, những tên buôn đồ cổ tham lam mà bất chấp tính mạng. Và có lẽ nổi cộm lên nhất đó là tên trộm, một danh xưng chẳng mấy tốt đẹp gì, một con người thoạt nhìn có thể gây ra bao tội ác. Nhưng đặt vào tình thế cấp bách, lại sáng lên cái sự “nhân nghĩa”, sự hào hiệp giúp đời. Dường như chính sự lạ lùng trong từng câu nói, thái độ, quan điểm sống của nhân vật đã phá vỡ nhưng suy nghĩ cố định của tôi.
Quay trở lại câu nói của T.S Trần Ngọc Hiếu,và khép lại tác phẩm. Văn học không dạy ta cách làm người, văn học viết ra để cho ta thấy rằng việc làm người là một việc rất khó, có những thứ ta sẽ chẳng biết được nếu chỉ nhìn một phía, có những con người tưởng là xấu xa nhưng họ đâu phải là không có lý tưởng. Có những danh xưng tốt đẹp, nhưng ta tự hỏi, người tốt là như thế nào ?. Suy cho cùng, tất cả những gì ta nghe được chỉ là một quan điểm, không phải thực tế. Tất cả những gì chúng ta thấy chỉ là một góc độ, không phải sự thật. Văn học, đã đưa cho tôi nhiều góc độ khác, để tôi có thể thấy nhiều những bi, những hài, những khổ đau, những hạnh phúc ở một đời người. Để bớt lại những lời phán xét, những nhận định sai lầm về họ, để khi đưa ra bất kỳ quan điểm nào, ta cũng cần phải hiểu sâu bản chất trước khi buông lời đánh giá làm tổn thương bất kì một ai.

Phạm Bích Liên