Những năm đầu thế kỷ XX, văn chương Việt như đứng trên chiếc cầu bắc giữa hai bờ. Một bên là bóng đèn dầu Nho học, bên kia lại là ánh điện vừa lóe lên. Trong những ngôi nhà dạy học, tường cũ bong ra từng mảng, bụi rơi lả tả xuống bàn mực. Ngoài phố, guốc mộc chen với tiếng xe tay lọc cọc, mùi khói than quyện mùi nước hoa rẻ tiền… Tất cả đều gợi nhớ tới hơi thở của buổi giao thời.

   Từ bao thế hệ, đời sống tinh thần của người Việt luôn chìm trong cái bóng bao trùm của chữ “đạo”. Mọi điều thiện, ác, đẹp, xấu, đều đã có những khuôn mẫu có sẵn để đo. Nên khi chữ Quốc ngữ bước chân vào không gian văn hóa Việt, nó giống như một kẻ lạ mặt, bị các trí thức Nho học dè bỉu. Họ cho rằng đó là chữ ngoại lai đến từ những kẻ truyền giáo. Nhưng không ngờ một ngày, chính thứ chữ ấy lại làm nên điều kỳ diệu. Từ những tác phẩm văn xuôi đầu tiên như Truyện thầy Lazaro Phiền, đến những trang tiểu thuyết hiện thực sắc lẹm, đả kích xã hội như Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, những bài báo khuynh đảo dư luận trên các tờ Nam Phong, Phong Hóa. Thứ chữ viết ấy đã từng bước chiếm lĩnh đời sống văn chương.

   Nếu văn xuôi chữ Quốc ngữ hướng ngoại, mổ xẻ và mô tả hiện thực xã hội bên ngoài, thì Thơ Mới khi ấy xuất hiện để quay hẳn vào trong. Những tiếng thơ ấy vang lên, người ta nghe thấy rõ hơi thở rất đỗi con người. Như trong “Tràng giang”, nỗi buồn của Huy Cận không phải thứ buồn dạy người ta sống cho phải đạo. Đó là nỗi buồn đứng ngoài bờ nước chiều, nhìn một cánh bèo trôi mà thấy mình cũng trôi theo. Một nỗi cô đơn có hình, có tiếng sóng đập vào lòng.

   Đến Xuân Diệu thì thơ Việt như chàng trai lần đầu biết yêu. Ông yêu đời đến độ thở gấp, sợ chiều xuống, sợ gió thổi làm rơi mất một chiếc lá. Có khi chỉ một tiếng ong qua cũng đủ khiến ông giật mình vì thời gian đang trôi thật nhanh.

   Cùng với sự thay đổi nội dung, Thơ Mới còn làm ta có cách cảm khác về cái đẹp. Cái đẹp ở giai đoạn này không còn nằm ở những hình tượng khuôn mẫu như “tùng, cúc, trúc, mai”, mà nó hiện diện ngay trong những gì bình dị, mong manh nhất. Như Hàn Mặc Tử giữa cái đau rát của bệnh tật, ông vẫn mơ về trăng tròn, hỏi nhỏ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó…” Ta thấy trong nỗi cô đơn đến tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng có một vẻ đẹp cứu rỗi được linh hồn.

   Cũng không thể không nhắc đến những bậc tiên phong. Thế Lữ, với những vần thơ “mang cả hồn ma trong dạ”. Nguyễn Bính, với chất liệu dân gian mộc mạc, đem đến một hồn quê đằm thắm…Tất cả những đóng góp ấy đã tạo nên phong trào thơ rực rỡ và đa diện bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.

   Tuy nhiên, hành trình của Thơ Mới cũng đầy tranh cãi. Người ta từng chê Thơ Mới yếu đuối. Các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng từng mỉa mai đó là thứ thơ ca chỉ biết rên rỉ. Họ cho rằng trong khi đất nước còn lầm than, thơ ca phải là vũ khí, chứ không phải là thú tiêu khiển cho những tâm hồn lãng mạn. Nhưng cá nhân tôi cho rằng nếu chưa từng dám nhìn vào nỗi cô đơn của chính mình, thì làm sao ta đủ sức cảm thông cho người khác, để rồi thật sự yêu tổ quốc?” Thơ Mới vì vậy chính là một bước chuyển cần thiết để văn hóa Việt hòa nhập vào dòng chảy hiện đại của thế giới.  

   Chiến tranh đi qua, hòa bình lập lại, đất nước trải qua bao thăng trầm, đổi thay. Nhưng ngọn lửa của sự tự thức tỉnh mà Thơ Mới thắp lên chưa bao giờ tắt. Nó âm ỉ cháy trong những trang nhật ký đầy máu và nước mắt của người lính nơi chiến trường, trong lời hát cô gái thời bao cấp, trong trang giấy viết dở của một ai đó đêm khuya… Mỗi lần có một con người dám thành thực với nỗi cô đơn, niềm hạnh phúc hay nỗi sợ hãi của chính mình, ngọn lửa những năm ba mươi ấy lại bùng lên.

   Giờ đây, thế giới phát triển nhanh một cách chóng mặt. Người ta có thể kết nối với nhau từ nửa vòng trái đất chỉ bằng một cú chạm. Mạng xã hội cho phép ta trò chuyện mọi lúc, nhưng những tâm hồn thì rời rạc hơn bao giờ hết. Thơ dường như thừa thãi giữa thời đại này. Nhưng chỉ cần một lần, nghe ai đó đọc lại mấy vần thơ cũ, lòng vẫn thấy chùn xuống. Có lẽ bên dưới tất cả lớp vỏ công nghệ, con người vẫn cần một chỗ để mơ.

   Nếu bạn thật sự muốn hiểu sâu về phong trào Thơ Mới (1932–1945) giai đoạn rực rỡ trong lịch sử thi ca Việt Nam. Nên tìm đọc những công trình nghiên cứu kinh điển đã được giới học thuật thừa nhận.

Trước hết là “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, cuốn sách được xem như “kinh điển gối đầu giường” của mọi người yêu thơ, vừa tuyển chọn vừa bình luận sâu sắc về các nhà thơ tiêu biểu.

Tiếp đó, “Nhà Văn Hiện Đại” của Phan Cự Đệ giúp bạn thấy rõ bối cảnh, đặc điểm và thành tựu của Thơ Mới trong dòng chảy văn học dân tộc.

Bộ “Thơ Mới 1932–1945 – Tác Giả Và Tác Phẩm” là một tuyển tập công phu, quy tụ nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu về các tên tuổi lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử…

Còn “Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên” (tập 3) của Phạm Thế Ngũ lại cho bạn cái nhìn hệ thống hơn, đặt thơ Mới trong bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa đương thời.

Nếu có điều kiện hơn, hãy tra cứu tại thư viện các trường đại học như Khoa học Xã hội & Nhân văn hoặc Sư phạm, nơi lưu trữ nhiều tư liệu gốc quý giá.

Những cuốn sách ấy sẽ không chỉ giúp bạn đọc lại thơ Mới bằng con mắt lịch sử, mà còn mở ra một hành trình thưởng thức. Nơi người đọc có thể chạm tới nhịp thở tinh tế của cái tôi thi sĩ, từng làm rung động cả một thế hệ.

Thanh Ngân