Mỗi khi nhắc đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương, người ta thường nghĩ ngay đến tiếng cười chua cay, phóng túng, dám thách thức cả khuôn phép lễ giáo. Tên nữ sĩ cũng thường được nhắc cùng những bài như Bánh trôi nước, Tự tình, Vịnh Ni Sư…

Nhưng có một bài thơ, khi mở ra, người ta bỗng thấy yên lặng. Không còn ngạo nghễ “thân em” trắng tròn, mà là một giọng buồn như hơi sương. Bài ấy mang tên Hoài cựu – “Nhớ người cũ”.

Có rất nhiều người cho rằng bài thơ này không phải của Hồ Xuân Hương, vì nó khác phong cách vốn có của nữ sĩ. Nhưng nếu đọc và tìm hiểu kỹ, ta sẽ nhận ra: chỉ có người phụ nữ từng sống với nỗi đau, yêu đến tận cùng niềm kiêu hãnh đó, mới có thể viết ra những dòng như thế.

Trang giấy in những nét chữ:

懷舊 (Hoài cựu – Nhớ người cũ)

發情異語別包廂 (Phát tình dị ngữ biệt bao sàng) – Tình xưa đã khác, lời đã lạ, chăn gối đã chia.

安獨緣初攬涼調 (An độc duyên sơ lãm lương điều) – Một mình ôm duyên cũ, mát lạnh như hơi sương đầu.

花腮添露噙牙幾 (Hoa tai thiêm lộ, hàm nha kỷ) – Má hoa thêm giọt sương, răng ngậm bao lời nghẹn.

蘭落空窗曉史難 (Lan lạc không song, hiểu sử nan) – Lan rụng trước cửa sổ trống, chuyện cũ khó kể lại.

才情女弟為繡惹 (Tài tình nữ đệ vi tú nhiễu) – Người con gái tài tình, khéo tay mà vướng sầu.

風景藍鷗吹左嵐 (Phong cảnh lam âu xuy tả lam) – Cảnh gió xanh, cánh chim nghiêng theo chiều gió.

連將別浪超大造 (Liên tương biệt lãng siêu đại tạo) – Sóng biệt ly vẫn dâng lên như trời đất xoay vần.

戀花蓮淚喚信潮 (Luyến hoa liên lệ hoán tín triều) – Thương hoa rơi, lệ hòa cùng con triều gửi tin xa.

Một bài thơ của ký ức, chứa toàn những thứ đã rụng, đã phai. Chữ “phát tình dị ngữ” nghe như một vết xé: tình cảm của họ từng là một ngôn ngữ riêng, giờ đã thành thứ tiếng xa lạ. “An độc duyên sơ” – cái “độc” ấy là sự giật mình khi đã bước ra khỏi một giấc mộng dài. Trong từng hình ảnh hoa tàn, lan rụng, sóng biệt, triều tin là cả một tuổi xuân người phụ nữ bị thời gian bào mòn. Nhưng ký ức về sự chia ly ấy, dường như không bao giờ cạn.

Rồi nhiều năm sau, bài ấy được chuyển sang chữ quốc ngữ, viết ra thành lời:

“Gửi tình ngang ngửa biết bao nhiêu,
Một chút duyên xưa dở lắm điều.
Bèo lạc không kinh con trẻ lại,
Hoa trăng thêm ruổi cái già theo.
Tài tình nợ ấy vay nên lãi,
Phong cảnh vui đâu gửi đã nhiều.
Đưa đẩy biết tường tay đại tạo,
Gánh hoa trên nước thấm tin triều.”

Ở bản dịch này, nỗi buồn trở nên gần gũi hơn. Nó không còn mơ hồ như khói mà là buồn của một người đàn bà đang hiện hữu. “Bèo lạc không kinh con trẻ lại” bèo trôi dạt, không còn dòng nước đưa về. “Hoa trăng thêm ruổi cái già theo” hoa vẫn đẹp, trăng vẫn sáng, chỉ có tuổi xuân đã tàn. Nếu bản Nôm là nỗi nhớ thương day dứt nén trong ngực, thì bản này là hơi thở dài thả ra gió.

Đọc đến đây hẳn chúng ta đều thắc mắc nữ sĩ đang nhớ ai? Có thể là người chồng đã mất theo những gì dân gian đồn thổi. Cũng có thể là người tình đã xa xôi. Nhưng thứ tôi cảm nhận rõ qua bài thơ, và cho là đúng nhất: Hồ Xuân Hương đang nhớ chính mình. Nhớ thời còn là người con gái từng rực rỡ, tài hoa, dám yêu, dám thách thức cả đời sống. Bởi trong cả bài, không hề có một bóng dáng người đàn ông nào cụ thể. Chỉ có “bèo”, “hoa”, “sóng”, “trăng” là những hình ảnh phản chiếu lại chính nỗi buồn người nữ. Giữa dòng chữ “tài tình nợ ấy vay nên lãi”, nữ sĩ như thừa nhận: tài tình là món nợ của trời. Nợ ấy phải trả bằng cô đơn. Và nỗi cô đơn lớn nhất của nữ sĩ, chính là biết giá trị của mình, nhưng cũng biết cái giá phải trả cho giá trị ấy.

Lý do tôi chọn đặt hai bản thơ cạnh nhau phân tích, là để thấy rõ hai sắc độ. Bản Nôm giống như một bức tranh thủy mặc đường nét ẩn, gợi đọc giả ngẫm nghĩ. Bản diễn nôm thì lại là một khung cảnh rõ hơn: có thời gian, có dòng nước, có bóng hoa. Bản Nôm giữ lại vẻ u huyền, thanh lạnh, sang trọng của một người đàn bà thời trung đại. Bản diễn nôm lại làm hiện lên hơi thở con người, những câu chữ mềm, mà người hiện đại dễ nhận ra. Vì vậy không cần nhất thiết phải phân định bản nào “hay hơn”. Một bên vốn sâu như đáy sông, một bên lại lan như mặt nước. Khi đọc cả hai, người ta có thể cảm được hình hài của nỗi nhớ theo nhiều góc độ. Và chung cho cùng cả hai đều gặp nhau ở: “Gánh hoa trên nước thấm tin triều.” Đó là hình ảnh kết tinh rằng người đàn bà đã chấp nhận ôm lấy nỗi đau, đặt nó lên sóng, để thời gian mang đi.

Nghĩ xa hơn thì nỗi nhớ không tên ấy, rốt cuộc, có thể ứng với bất kỳ ai. Có thể là Hồ Xuân Hương trong đêm. Hay một người đàn bà hiện đại đang nhìn lại chính ta của ngày còn trong veo. Hoài cựu không chỉ là nhớ người cũ. Nó là nhớ chính mình, cái phần đã yêu, đã tin, đã từng sống hết lòng.

Đêm nay, có người trẻ mở lại cuốn sách với vài dòng thơ chữ Nôm cũ, bản diễn nôm nghiêng nghiêng bên cạnh. Không hẳn hiểu hết ý nghĩa ngụ trong những vần thơ xưa, mà vì cảm được nỗi buồn trong đó. Cũng từng “gửi tình ngang ngửa biết bao nhiêu”, cũng từng “một chút duyên xưa dở lắm điều”. Cũng biết cảm giác “hoa trắng thêm ruổi cái già theo” tuổi tác là một phần, lớn hơn là do những mùa yêu trong lòng đã héo. Trong khoảnh khắc ấy, khoảng cách hơn hai trăm năm giữa hai thế hệ bỗng biến mất. Những dòng thơ viết bằng mực, những dòng chữ gõ lạch cạch trên bàn phím, cả hai đều đang “Hoài cựu”. Ta mượn nỗi nhớ người cũ, nghĩ thương cho chính mình cũ. Và bởi dù ai quên ai, tình hay duyên đều tan rã, thì vẫn còn lại “Gánh hoa trên nước thấm tin triều – Nỗi nhớ đã trôi, nhưng hương vẫn còn.”

Bài viết này được khơi nguồn cảm hứng từ bài thơ “Hoài Cựu (Nhớ người cũ)” in trong sách “Hồ Xuân Hương và Tôi” Đông Di.

Đây là một tản văn cảm luận, không mang tính học thuật hay chú giải văn bản cổ. Mọi suy tưởng, liên hệ và diễn giải trong bài chỉ dựa trên cảm xúc cá nhân của người viết khi đọc lại bài thơ ấy trong đêm. Nếu bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về xuất xứ, văn bản, cũng như những tầng nghĩa phức tạp trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương, có thể tham khảo một số tài liệu chuyên khảo như:

Thơ Nôm Hồ Xuân Hương  (Kiều Thu Hoạch)

Hồ Xuân Hương – Hoài niệm và giải mã  (Trần Thanh Mại)

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương và thơ Nôm truyền thống (Nguyễn Lộc Văn học)

Thanh Ngân