19/8/1945, cách mạng về, lôi cuốn cả dân tộc bước vào cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do và toàn vẹn non sông. Nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng không ngoài cuộc. Từ một nhà thơ trữ tình lãng mạn, ông bước vào cuộc sống thực tế đầy khắc nghiệt thời kháng chiến một cách năng nổ và giàu nhiệt huyết. Một sự thay đổi hết sức chóng mặt, đến nỗi người bạn thơ Nguyễn Tuân còn phải sửng sốt mà gọi đùa ông là “thằng hùng hục”.
Dù vậy, giang sơn dễ đổi, bản tính khó rời. Tuy về sau đã tham gia tích cực cho hoạt động văn hóa văn nghệ thời kháng chiến, kinh qua bao nhiêu chức vụ, nhưng riêng cái bệnh… đãng trí thì chưa bao giờ dứt ra khỏi thân ông. Lần này thì đến lượt các anh chị em trong các hội nhóm văn nghệ cứu quốc sẽ là những người tiếp theo bị nhà thơ “tặng vố”!
***
Nhớ có một lần, không biết có việc gì gấp rút, ông chỉ giữa mặt một nam nghệ sĩ mà nói:
“Mi đi tìm thằng Xuân Tứ cho tau!”
Nhưng hỡi ôi! Người bị ông chỉ tay thẳng mặt đó chính là nghệ sĩ đàn accordéon Xuân Tứ chứ còn ai khác ở đây!
Nhưng khoản sự việc mà Lưu Trọng Lư để lại nhiều chuyện tiếu lâm trong đội văn nghệ nhất là phải kể đến những lần đi lưu diễn tại nước ngoài.
Có một lần đi lưu diễn ở Romania, khi đoàn trở về khách sạn, người phụ trách ra đón, nói:
“Không biết đồng chí nào quên khóa vòi nước, để nước chảy tràn ra cả”.
Nhà thơ, khi này giữ chức Đoàn trưởng, bực tức quát:
“Ai mà ẩu thế nhỉ?”
Nhưng đến khi điều tra thì mới hay thủ phạm là… chính mình!
Rồi đến khi biểu diễn, trong một số lần rất… không rõ vì sao, thi sĩ lại hô nhầm khẩu hiệu. Như có lần lưu diễn ở Tiệp Khắc (nay tách ra thành hai nước Cộng hòa Czech và Slovakia), bỗng Đoàn trưởng sau bài “dit cua” hét toáng hội trường:
“Việt – Đức muôn năm!”
Hay khi lưu diễn ở Cộng hòa Dân chủ Đức (nay đã cùng Cộng hòa Liên bang Đức thống nhất thành một nước Đức chung), thi sĩ lại bỗng giơ tay
“Muôn năm Việt – Xô!”
Lần này thì có phiên dịch kịp thời giải vây.
Rồi lại thêm, các đoàn nghệ thuật của chúng ta mỗi khi đi trình diễn nước ngoài sẽ có một hoạt động hết sức hiển nhiên là mua quà. Bản thân Đoàn trưởng Lưu Trọng Lư cũng không thoát khỏi thú vui trên. Thế nhưng, nếu như các văn nghệ sĩ của ta mua đủ thứ đồ về làm quà cho người thân, thì Đoàn trưởng, với tầm hồn văn thơ lúc nào cũng lai láng, thường rất chăm mua bút. Mỗi lần mua tới hàng chục cây. Nhưng oái oăm là khi cần viết thì lại… chẳng tìm ra một cây bút nào! Cũng chỉ là vì sự đãng trí, trong những lúc mơ màng, nhà thơ lại để bút, củng cả tá các thứ đồ đạc như sổ sách, đồ dùng cá nhân… đi tứ tung, hay cho tặng ai, rồi quên hết!
***
Còn bận này thì sự đãng trí của thi sĩ này lại làm khổ các anh bộ đội tại biên giới, trở thành giai thoại theo các văn công trở về xuôi để lưu truyền cho hậu thế. Sách “Giai thoại làng văn Việt Nam” (NXB Văn hóa Dân tộc, 1999) có câu chuyện: Hồi xảy ra chiến tranh biên giới (người viết đã cố gắng tra cứu, nhưng cũng không rõ là chiến tranh biên giới Tây Nam hay Việt – Trung), thi nhân của chúng ta, khi ấy đã ở tuổi lão, vẫn cắp bút sổ theo đoàn văn nghệ sĩ tới một đơn vị bộ đội tìm hiểu tình hình. Tại đây, ông vừa phỏng vấn, vừa ghi chép lời kể của các chiến sĩ trẻ để làm tư liệu cho một bài bút ký.
– Bọn giặc có chết nhiều không? – Cụ hỏi.
– Dạ, chết nhiều – Chiến sĩ đáp
– Chúng bị thương có nhiều không?
– Dạ, chúng bị thương nhiều và kêu khóc dữ lắm ạ.
– Chúng khóc răng? – Cụ ngước lên hỏi:
Đến khúc này thì các chiến sĩ lúng túng vì có ai biết tiếng của đối phương đâu! Cơ mà cũng may, trong cái khó ló cái khôn, một chiến sĩ liền nhanh trí trả lời:
– Dạ, chúng khóc bằng ngoại ngữ, chúng cháu không hiểu ạ!
Câu trả lời vừa thành thật mà cũng rất tinh tế này đã giúp cả người hỏi lẫn người trả lời cùng được “giải ngố”.
***
Dù lần này, nhà thơ Lưu Trọng Lư mang theo bệnh đãng trí của mình đến làm khổ anh chị em văn công, nghệ sĩ. Nhưng cũng như với gia đình và anh em trong thi đàn, không một ai nỡ trách ông. Nguyên nhân, như đã kể trong phần trước, nửa là vì hiểu rằng đó là một mẫu số hay thấy của giới văn nghệ sĩ, nửa là vì ông có một phẩm giá cực kỳ đáng quý, luôn hết mình với mọi người xung quanh.
Với tính khí bộc trực, thẳng thắn, nhà thơ không bao giờ tiết kiệm lời khen. Bất cứ một tác phẩm, một vở diễn, hay một động tác, lời thoại nào mà hay là ông gật đầu khen liền. Chính nhờ sự phát hiện và đánh giá của ông mà không ít văn nghệ sĩ đã được cất cánh, trở thành những cây đa cây đề kế cận của đất nước.
Giai thoại còn kể lại: Một lần nọ, sau quá trình quan sát một nữ vũ công trong Đoàn Văn công nhân dân Trung ương, nhà thơ liền chỉ tay ngay vào mặt cô ấy:
“Mi có tài văn chương đó, sao không làm thơ, viết văn đi?”.
Như được tiếp thêm động lực, vũ công ấy đã quyết định theo học khóa I Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau một quá trình nỗ lực không ngừng nghỉ, cô ấy đã trở thành huyền thoại với những “Sóng”, “Tiếng gà trưa”, “Chuyện cổ tích về loài người”… Đó chính là nữ sĩ Xuân Quỳnh.
***
Đến đây là đã hết những cóp nhặt dông dài về những giai thoại đãng trí của thi sĩ Lưu Trọng Lư mà người viết thu thập và đối chứng thông qua nhiều nguồn khác nhau: Trên giảng đường đại học, lời kể của những người yêu thơ ca, báo chí, sách vở… Có thế, chúng ta mới thấy ở ông một góc cạnh sao mà vừa kì cục, vừa đáng yêu đến thế! Cái tính đãng trí như một sự cân bằng, giúp ông trở nên con người hơn, đời thường hơn. Để từ đó, ông sống mãi trong lòng những người ở lại nói riêng, và trong mỗi chúng ta, với hình tượng một linh hồn bất tử trong phong trào “Thơ Mới”, của văn nghệ cách mạng, và của những giai thoại thường nhật hết sức hóm hỉnh nơi thi đàn Việt Nam.
Ngô Tiến Vinh