“Thất bại là mẹ thành công”
Câu thành ngữ trên có lẽ đã là điều hiển nhiên đối với bất cứ ai. Phàm đã sống trên đời, mấy khi làm lần đầu đã được ngay đâu! Phải va vấp, hỏng hóc không ít lần thì mới có thể đạt được đến kết quả sau cùng.
Nhưng! Với chuyện khoa cử thời phong kiến, thất bại lại là một vấn đề rất khác! Bởi hồi đó, việc đi lên huyện, phủ, kinh đô để ứng thí là không hề dễ một tí nào. Nan giải nhất là tốn kém kinh phí và vất vả khi di chuyển. Thành ra, không ít những trường hợp vì thi trượt mà phải bỏ cuộc trong tình cảnh khánh kiệt gia sản. Trường hợp của cụ Nguyễn Khuyến nhà ta cũng đã từng rơi vào thảm cảnh trên.
Trước khi nức danh với tiếng tăm Tam nguyên Yên Đổ (三元安堵), cụ Nguyễn Khuyến, khi mới bắt đầu nghiệp lều chõng tên là Nguyễn Thắng (阮勝), lại khét tiếng vì… chuyên thi trượt! Từ lần đầu tiên ứng thí vào năm 1855, tổng cộng cụ đã trượt 4 kỳ thi Hương! Đã vậy, thảm họa lại chồng thêm khi vào năm 1856, Nguyễn Thắng mắc bệnh thương hàn suýt qua đời. Gia đình cũng từ đây lâm vào cảnh túng bấn. Mẹ và ông phải chạy vạy đi làm thuê. Còn cụ thường phải mượn sách bạn bè để tự học, một ngày đi học thì mười ngày phải nghỉ. Năm 1861, nhà thơ phải bán đất vườn để lấy tiền sinh sống. Bế tắc, cụ đã viết bài “Giễu mình chưa đỗ” để tự than:
“Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi.
Cơm cứ lệ ăn đong bữa một,
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.
Bốn khoa hương tí không đâu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
Mang tiếng văn chương lừng vũ trụ,
Nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi.”
Dù vậy, cụ Thắng vẫn bền chí học tập. Không buổi bình văn nào Nguyễn Thắng vắng mặt. Khi đi, cụ thường không quên đem theo cái dậm, gửi ở một gia đình gần trường rồi vào nghe bình văn. Tan học, cụ lại đem dậm ra ngoài đồng kiếm cua, cá đến tối mới về. Đi trọ học cùng bạn bè, Thắng thường nhận nấu cơm, trả ơn đối với những người giúp đỡ mình. Những lúc các bạn bàn luận văn chương rôm rả thì Thắng thui thủi ở dưới bếp theo dõi sự việc ở trên nhà, thấy câu nào hay, ý nào đẹp, cụ lấy que cời khuyên bừa vào các ông đầu rau. Thậm chí những lúc cao hứng, cụ còn làm đổ cả nồi cơm đang sôi. Hôm ấy cơm không ngon, các bạn kêu ca, Thắng phải tường trình lại sự việc. Một người lên tiếng:
– Vậy tiên sinh cho vài lời…
Thắng nói vanh vách từng câu, từng chữ làm cho ai cũng nể phục.
Thế nhưng, cái dớp thi trượt vẫn đeo bám mãi vào thân. Cứ mỗi lần như thế, tài chính và niềm tin của những người xung quanh cứ thế suy sụp dần. Có lúc, tinh thần của bản thân đã xuống cực kỳ thấp, cụ định bỏ thi để về dạy học, đi làm ăn. Khi này, sức mạnh của tình bạn và gia đình lại vụt sáng, chiếu rọi vào thời khắc đen tối nhất trong đời. Người bạn thân Vũ Văn Báo khi hay tin đã nhận hỗ trợ và khuyên đến cùng học với cha mình là tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (nay là xã Vĩnh Trụ, tỉnh Ninh Bình). Mẹ và vợ thì trở thành hậu phương, chấp nhận đồng cam cộng khổ để giữ không cho cụ thoái chí.
Giáp Tý 1864, cụ tham gia kỳ thi Hương thứ 5 trong đời ở trường Hà Nội. Vợ cụ phải chạy xuôi chạy ngược, bán cả chiếc yếm cưới mới được có 5 quan tiền. Túng tới mức cụ phải chạy sang nhà bà cô, năn nỉ mãi mới vay thêm được 15 quan. Muối mặt nhất là lúc qua nhà ông anh rể, ông anh đã bỗ bã:
– Ba keo mèo cắn cổ, đằng này, cậu có bốn keo “trượt vỏ chuối” rồi. Tôi nói thật, cậu mà đỗ thì cái cối xay cùn cũng đỗ!
Câu nói chạm vào mạch tự ái cực sâu! Thầy đồ Thắng cay cú vô cùng, miệng ngậm bồ hòn quay về, rồi cứ thế lên đường lều chõng đi thi với số tiền ít ỏi. Lên Hà Nội, cụ phải chấp nhận xin ngủ ở dưới bếp nhà trọ vì sắp cạn tiền.
Nhưng lần này, may mắn và tài năng đã gặp nhau để cùng giúp cụ. Thi xong, ngày xướng danh, yết bảng chưa tới. Nhưng tin đồn thầy Thắng đỗ đầu Cử nhân (tức Giải nguyên) đã lan ra vỉa hè. Các sĩ tử hay tin thì như trẩy hội náo nức đi tìm đó đây để xem mặt thủ khoa. Tìm mãi… tìm mãi… Cuối cùng thì thấy ông thủ khoa trường Hà… đầu gối lên cái ống quyển, bụng đắp chiếc áo nâu dài bạc màu đang nằm còng queo ngủ ngon lành trên chiếc phản trơ trọi dưới bếp nhà chủ trọ
Nhưng đỗ, mà lại còn đỗ đầu nữa, thì phải khao cả làng cả xã thôi! Khi ông thủ khoa về vinh quy bái tổ, có người biết sự vụ trước liền chạy đến nhà anh rể nọ nhắc đùa:
– Cái cối xay cùn đã đỗ thủ khoa rồi đấy, ông sang mà ăn khao chứ!
Dẫu vậy, vẫn còn thi Hội và thi Đình nữa. Hai lần thi Hội tiếp theo vào các năm 1865 và 1868, cụ lại trượt! Nhưng lần này, bản lĩnh của cụ đã dần trở nên vững vàng hơn. Cụ quyết định ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Khoa 1869, lại trượt! Cũng không còn sợ nữa! Đây cũng là thời khắc cụ thực hiện bước ngoặt lớn nhất cuộc đời: Đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến (阮勸), với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa do chữ thắng (勝) có chữ lực (力) nhỏ, chữ khuyến (勸) có chữ lực lớn hơn.
Cuối cùng, sau bao sự kiên cường không bỏ cuộc, đến năm 1871, cụ đỗ đầu cả hai kỳ thi Hội và Đình, giành cả hai ngôi Hội Nguyên và Đình Nguyên. Từ đó, Nguyễn Khuyến được mệnh danh Tam Nguyên Yên Đổ (三元安堵) như chúng ta đã biết. Càng danh giá hơn nữa nếu như chúng ta biết được rằng cả triều Nguyễn chỉ có cụ và hai cụ nữa lập được kỳ tích trên là Trần Bích San (Tam nguyên Vị Xuyên) và Vũ Phạm Hàm (Tam Nguyên Đôn Thư).
Ngô Tiến Vinh