Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương 胡春香 (1772-1822) là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà hành trạng hiện vẫn khiến nhiều học giả tranh cãi. Di tác của bà hoàn toàn là thơ, trong đó mảng Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần sự khảo cứu lâu, nhưng thi sĩ Xuân Diệu đã tôn Hồ Xuân Hương làm Bà chúa thơ Nôm. Hầu hết thi ca Hồ Xuân Hương theo dòng chảy chung đã thoát được các quan niệm sáng tác cố hữu vốn đề cao niêm luật chặt chẽ để bộc lộ được tiếng nói của thời đại mình

Về hành trạng, không có bất cứ tư liệu cổ điển nào chép về lai lịch và hành trạng của Hồ Xuân Hương, bà chỉ thực sự được hậu thế biết đến qua sách Giai nhân dị mặc 佳人遺墨 của học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, ấn hành tại Hà Nội năm 1916. Cũng vì cớ đó, việc có hay không một nhân vật tên Hồ Xuân Hương hiện còn là câu hỏi ngỏ. Học giới nhất quán rằng Hồ Xuân Hương sinh vào năm 1772 ở phường Khán Xuân (nay thuộc địa phận công viên Bách Thảo, Hà Nội). Cũng theo Giai nhân dị mặc, bà là ái nữ của sinh đồ Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786), người hương Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Còn theo học giả Trần Thanh Mại, thân phụ của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Sĩ Danh 胡士名 (1706-1783) cũng người Quỳnh Đôi, là em cùng cha khác mẹ của Kinh Dương hầu Hồ Sĩ Ðống 胡士棟 (1739-1785). Thân mẫu của Hồ Xuân Hương là bà lẽ Hà thị 何氏 (?-1814) người trấn Hải Dương. Học giả Phạm Trọng Chánh dựa vào tục xướng danh cổ điển và câu tựa “Phi mai xuân sắc nhất kinh thành” 丕梅春色一京成 của Tốn Phong Phan Huy Huân để khẳng định: Hồ Phi Mai 胡丕梅 là nguyên danh, Xuân Hương 春香 là biểu tự và Cổ Nguyệt đường 古月堂 là bút hiệu.

Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,

Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lầu.

Lá nhuộm thức hồng thêm vẻ thẹn,

Sương pha khói biếc rộn cơn sầu.

Thẩn thơ trước triện, nhàn khoe gió,

Đồng vọng bên tai, địch thiết rầu,

Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,

Trêu nhau chi những sự cơ cầu.

Con bóng đi về chốc bấy nay,

Chữ duyên nào đã chắc trong tay.

Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt,

Trông suốt nhân tình dạ muốn say.

Muôn kiếp biết đà duyên trọn vẹn,

Một đời riêng mấy tiếng chua cay.

Nỗi mình nỗi bạn dường bao nả,

Dám hỏi han đâu những cớ này.

Tiếng gà xao xác gáy trên vòm,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,

Sau hận vì duyên để mõm mòm.

Tài tử văn nhân ai đó tá,

Thân này đâu đã chịu già tom.

Tạo hóa gây chi cuộc chiến trường,

Nhẩm nay đã trải mấy tinh sương.

Lối xưa xa mã hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Danh là gương để soi kim cổ,

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,

Khiến người qua đó chạnh niềm đau.

Mấy giò sen rớt hơi hương ngự,

Năm thức mây phong nếp áo chầu.

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,

Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.

Người xưa cảnh cũ nào đâu tá?

Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.

Hà đông một dải nước trong veo,

Lãng đãng thuyền tình chở nặng chèo.

Gợn sóng nhấp nhô tăm cá lội,

In dòng chấp chới mảnh trăng gieo.

Muốn trôi thơ lá mà than thở,

Phải mượn tin băng để dập dìu.

Cây cỏ thêm buồn lòng nước cũ,

Ái ân lạnh lẽo biết bao nhiêu.