Từ thuở xa xưa, dòng sông luôn là biểu tượng của sự sống, của ký ức và của hành trình con người đi tìm cội nguồn. Văn chương Việt Nam cũng vậy, như một con sông dài chảy qua bao thế hệ.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát…”
Hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm từng khiến bao người phải dừng lại trước những dòng nước thực sự, để ngẫm nghĩ. Những dòng sông ấy nó đã bắt nguồn từ nơi nào? Để rồi tới đây, nó không chỉ là nước, mà trở thành một phần hơi thở, câu hát quê hương?
Có lẽ, khó mà xác định điểm khởi đầu chính xác. Nhưng ta có thể hình dung văn chương hẳn cũng có một mạch nguồn xa xưa. Qua những lời ru ngọt ngào trong nôi, từ câu hò ngân giữa đồng trưa, hay ngọn lửa bập bùng nơi thôn dã với truyền thuyết về Lạc Long Quân – Âu Cơ, Thánh Gióng, Sơn Tinh – Thủy Tinh. Không có tên tác giả nào, nhưng ký ức cộng đồng đã lưu giữ. Những lời kể ấy giống như giọt mưa đầu mùa góp thành mạch nguồn ban sơ cho dòng chảy văn chương.
Rồi khi quốc gia dần định hình, con nước ấy khoác lên lớp áo chữ Hán. “Nam quốc sơn hà” không chỉ là thơ, mà như một bản tuyên ngôn chủ quyền. Đến Nguyễn Trãi, mạch văn chương vỡ òa. “Bình Ngô đại cáo” hùng tráng như thác đổ, còn “Quốc âm thi tập” thì gieo những hạt phù sa đầu tiên cho tiếng Việt viết, mở ra con đường riêng cho giọng nói dân tộc.
Thế kỷ sau, chữ Nôm rực sáng. Hồ Xuân Hương xuất hiện như một hòn đá ném xuống mặt nước, làm tung bọt sóng, giễu nhại mà mạnh mẽ, phá bỏ mọi khuôn phép trói buộc. Và Nguyễn Du, với Truyện Kiều, đã khiến mạch chảy lắng lại, trong veo, thẳm sâu. Từng câu lục bát đi qua lòng người: khi là tiếng khóc, khi là tiếng thở dài, vừa gột rửa vừa ám ảnh, để rồi nâng văn chương Việt thành gia tài nhân loại.
Bước sang cận hiện đại, chữ Quốc ngữ như một nhánh sông mới nhập vào. Lúc đầu hãy còn vụng về với “Truyện thầy Lazaro Phiền”, nhưng đó đã gieo vào lòng sông văn chương những dòng chảy tiên phong.
Khi phong trào Thơ Mới bùng nổ, văn chương như con nước phá bờ. Xuân Diệu sống gấp gáp, hối hả; Hàn Mặc Tử thì chập chờn giữa ánh trăng và bóng tối, để lại những vần thơ ám ảnh “Sao anh không về chơi thôn Vỹ?”; còn Huy Cận buồn bã ngắm “tràng giang” mênh mông. Cái tôi cá nhân lần đầu tiên hiện rõ, trẻ trung mà dữ dội, như một lớp sóng chưa từng có.
Rồi đến kháng chiến, mạch sông chuyển màu. Nó đỏ nặng phù sa, chở hơi thở của cả một dân tộc đứng lên. Tố Hữu cất tiếng thành khúc ca tập thể; Chế Lan Viên gieo thêm triết lý; Nguyễn Tuân đi tìm nhánh sông riêng tài hoa, ngông nghênh, không lẫn vào đâu. Nhưng đâu phải khúc sông nào cũng lấp lánh ánh sáng. Trước và trong những năm ấy, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng đã soi xuống đáy, cho thấy bùn đen, rác rưởi, những phận người bé nhỏ chới với giữa dòng. Văn chương, nhờ đó, không chỉ để ngợi ca, mà còn dám đối diện với sự thật trần trụi.
Sau chiến tranh, con nước chậm lại, trầm mặc hơn. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh lặng lẽ phơi bày ký ức máu xương trên mặt nước tĩnh. Nguyễn Minh Châu soi lại chính mình, đi tìm hạt ngọc ẩn trong tâm hồn con người. Và Nguyễn Ngọc Tư, nơi miền Tây gió chướng, cúi xuống nhặt từng phận đời nhỏ bé như viên sỏi câm lặng, để người đọc nhận ra trong lòng nước còn có cả nỗi thương nhớ thăm thẳm. Văn chương bấy giờ không còn rạch ròi thắng thua, mà lắng lại thành những câu hỏi lặng lẽ về thân phận, niềm tin, cách người ta sống với nhau sau bão tố.
Tất nhiên, bức tranh ấy chỉ là vài lát cắt. Văn chương Việt Nam chưa bao giờ chỉ có một dòng thẳng. Nó phân nhánh, uốn lượn, đôi khi rẽ sang những ngả nhỏ ít ai để ý, rồi lại hợp lưu về chỗ rộng hơn. Có khúc quanh bị bỏ quên, có dòng nhỏ từng bị xem nhẹ, nhưng tất cả đều góp phần làm cho diện mạo văn học thêm phức tạp, giàu có. Và dẫu trong veo hay đục ngầu, mỗi nhánh sông ấy đều để lại một dấu vết, một lớp phù sa nào đó cho hôm nay. Vậy dòng chảy hiện tại đang thế nào?
Bên cạnh những tên tuổi đã quen, văn học đương đại có thêm nhiều tiếng nói mới, trẻ trung, sắc sảo, đôi khi gai góc phá cách. Họ mang đến những mạch nước khác như chuyện đô thị, di cư, chuyện đời sống cá nhân với đầy lo âu, khao khát. Văn chương hôm nay có thể chưa đủ để tạo nên những thác lũ chấn động, nhưng từng con nước nhỏ vẫn ngày ngày góp vào, làm cho sông không ngừng chảy. Có thể sẽ có lúc người ta thắc mắc: liệu chỉ những dòng ào ạt mới làm nên lịch sử? Hay những lạch nhỏ, âm thầm, mới chính là nơi giữ lại độ bền lâu?
Con sông văn chương Việt, xét đến cùng, vẫn là một dòng vừa đục vừa trong, khi dữ dội, khi êm đềm; có đoạn bồi đắp, có đoạn xói lở. Chính sự pha trộn ấy mới làm nên sức sống lâu dài. Và nếu con nước ấy không ngừng, thì mỗi người đọc, mỗi người viết hôm nay, dù ít hay nhiều, cũng đang góp một giọt nước của riêng mình. Bởi chỉ cần mở một trang sách, lặng im trước một vần thơ hay một đoạn văn, là ta đã bước xuống dòng sông ấy.
Và nếu đã ví von văn chương như dòng sông, thì “Cổ Nguyệt Đường” với hy vọng là một bến bên bờ. Ở đó, ta có thể cùng nhau ngồi xuống, đọc lại những trang quen thuộc dưới lăng kính mới, trò chuyện với nhau như bạn bè. Văn chương, rốt cuộc, không chỉ nằm yên trong sách cũ. Mỗi người, khi lựa chọn một cuốn sách để mở, đều đã tự chọn cho mình một khúc sông. Nói cho “Cổ Nguyệt Đường” biết, hôm nay bạn sẽ bắt đầu từ đâu?
Thanh Ngân