HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ TÔI – TIẾP NỐI MẠCH NGUỒN VĂN HOÁ VIỆT
“Nepal và thơ ca Hồ Xuân Hương thì có gì liên quan đến nhau cơ chứ?” Một câu hỏi tưởng như bâng quơ, nhưng lại mở ra cả một cõi nghĩ suy. Câu hỏi ấy do chính tác giả Đông Di nêu ra trong truyện ký Hồ Xuân Hương và Tôi. Và từ giây phút đọc nó, tôi nhận ra mình đã bước chân vào một chuyến đi không còn dừng ở nghĩa thông thường của một cuộc du lịch.
Chuyến đi Nepal của chị không chỉ là ngắm Himalaya, hay chạm vào những ngôi đền cổ kính. Đó là hành trình như chiếc cầu nối, kéo lại gần hai bờ tưởng chừng xa cách: văn hóa thế giới và bản sắc Việt Nam. Trên chiếc cầu ấy, hình bóng Hồ Xuân Hương hiện ra, không phải bà chúa thơ Nôm bị gắn với tiếng cười tục tĩu, mà là một linh hồn nhân văn sâu sắc, còn sống động đến hôm nay.
Quyển sách gồm hai phần. Phần đầu là truyện ký mười hai chương, kể lại hành trình ở Nepal của Đông Di cùng người bạn tâm giao – Mỹ Lai. Không chỉ là những trang tường thuật cảnh sắc, đó còn là cuộc đối thoại liên tục giữa hiện tại và quá khứ, giữa đất khách và quê nhà. Từ mỗi con người gặp gỡ, mỗi ngôi đền, ngọn núi, Đông Di khéo léo mở ra những chủ đề gai góc. Đó có thể là quá khứ chiến tranh, bình đẳng giới, tôn giáo hay những vấn đề lịch sử đầy phức tạp. Những chủ đề tưởng chừng dễ gây tranh cãi, dưới ngòi bút chị lại hiện lên mộc mạc như cuộc trò chuyện bên bếp lửa, vừa vui vẻ lại thấm thía.
Sức mạnh giọng kể của Đông Di nằm ở sự dung dị, hóm hỉnh như một người bạn hiền, nhưng cũng đủ thâm trầm, sâu lắng để bất ngờ mở ra cho người đọc cả một kho tàng kiến thức. Có lúc chị thong dong kể chuyện đời thường với chất giọng hiện đại, gần gũi, bất chợt chen vào một câu bông đùa duyên dáng khiến ta bật cười. Thi thoảng, chị lại khéo léo đan xen thơ văn của nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua những đoạn đối thoại, tạo nên một sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Và cũng chính chị, từ những chi tiết tưởng chừng rất nhỏ – một ngôi chùa nép dưới triền núi, dòng người bản địa trên phố, hay đường nét của những kiến trúc,… lại mở ra cả một vùng suy tưởng rộng lớn.
Giọng văn giàu tính điện ảnh của chị giúp người đọc dễ dàng hình dung từng khung cảnh, từng cuộc gặp gỡ như đang xem một thước phim sống động. Chẳng cần phô diễn, chị dẫn ta từ Himalaya hùng vĩ sang thị trấn bình dị, từ truyền thuyết Nepal đến liên hệ bất ngờ với văn hóa Việt. Nhờ thế, tác phẩm vừa truyền cảm hứng vừa thuyết phục, vừa như một chuyến đi chơi, vừa như một cuộc chiêm nghiệm nhân sinh.
Có thể một số độc giả sẽ thấy cách kết nối giữa Nepal và Hồ Xuân Hương ban đầu có phần khiên cưỡng. Nhưng chính sự chân thành trong từng trải nghiệm, sự tinh tế trong từng lập luận và khả năng dẫn dắt đầy cảm xúc của Đông Di đã dần dần xóa tan mọi nghi ngờ, để lại cho người đọc một sự thuyết phục sâu sắc.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, Hồ Xuân Hương và Tôi hẳn chưa đủ sức lay động. Cái làm nên mạch ngầm xuyên suốt toàn bộ cuốn sách chính là tình yêu. Ấy là tình yêu với Phật pháp, ánh sáng từ bi đưa chị đến Nepal để tìm lời giải cho những trăn trở cá nhân. Ấy là tình yêu với Hồ Xuân Hương – người nữ sĩ chị tôn vinh như một “nữ thần” của trí tuệ, sắc đẹp, tình yêu và lòng nhân hậu, truyền cho chị niềm tin rằng phụ nữ vẫn có thể để lại dấu ấn giữa dòng lịch sử nhiều bất công. Ấy còn là tình yêu với văn hóa thế giới, khi chị mở lòng đón nhận từng biểu tượng, từng truyền thuyết trên đất khách. Và sâu thẳm nhất vẫn là tình yêu văn hóa Việt Nam – sợi dây đỏ xuyên qua mọi trang viết. Nếu không có những tình yêu ấy, cuốn sách sẽ chỉ là một du ký. Nhưng nhờ tình yêu, nó trở thành một hành trình tâm linh, một phương tiện để nhìn lại di sản văn chương dân tộc bằng góc nhìn mới.
Nếu phần đầu là hành trình hiện tại, nơi Đông Di đồng hành cùng Hồ Xuân Hương trong dòng chảy văn hóa toàn cầu, thì phần hai đưa ta về quá khứ: 36 trên 37 bài trong Thơ Nôm Hồ Xuân Hương do Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch tuyển dịch. Suốt hơn bốn mươi năm, ông miệt mài tìm bản gốc chữ Nôm, dịch giải và mở đường cho thế hệ hôm nay tiếp cận di sản gần như trọn vẹn.
Từ đó chúng ta có tập Thơ Nôm của thơ Hồ Xuân Hương với sự đặc sắc lưỡng diện. Trong mỗi vần thơ vừa có tiếng cười trào phúng, vừa có nỗi chua chát; vừa gợi khoái lạc, vừa chứa đựng phẫn uất. Đằng sau tiếng cười ấy là nỗi đau bị dồn nén, là khát vọng hạnh phúc. Ta thán phục tài hoa, rồi ngay sau đó lại thấy xót xa, như thể nữ sĩ đang ngồi trước mặt, vừa giãi bày, mỉa mai, vừa muốn thỏa cái “tôi” của mình. Và hơn thế, những vần thơ còn là minh chứng cho sức sống của tiếng Việt Nôm: giản dị mà tinh tế, dân dã mà giàu nhạc điệu.
Thơ Hồ Xuân Hương không chỉ làm giàu văn chương, mà còn mở ra chi tiết lịch sử bất ngờ. Như bài “Vịnh Thăng Long hoài cổ” gợi ra giả thuyết cho rằng nữ sĩ có lẽ vẫn sống đến năm 1831, muộn hơn gần một thập kỷ so với những gì sách vở ghi nhận. Chỉ một chi tiết nhỏ cũng đủ khiến ta phải giật mình: hóa ra lịch sử vẫn còn nhiều khoảng mờ, đòi hỏi ta phải liên tục đọc, phải đối thoại lại với quá khứ.
Khi đặt truyện ký Đông Di cạnh tuyển thơ Nôm, tôi thấy rõ hai dòng chảy: một bên là hiện tại với hành trình Nepal, một bên là quá khứ với di sản thơ ca. Hai dòng ấy tưởng tách biệt, nhưng kỳ thực hội tụ trong tình yêu văn hóa Việt. Chính sự cộng hưởng này làm cuốn sách có giá trị kép: vừa giúp ta hiểu hơn về Hồ Xuân Hương, vừa khơi gợi trách nhiệm gìn giữ bản sắc.
Và quay về nghi vấn “Nepal và Hồ Xuân Hương liệu có liên hệ gì thật không, hay chỉ là sự gượng ép của tác giả?” Tôi nghĩ, văn hóa vốn chẳng bao giờ đóng khung. Nó như những mảnh ghép, chỉ cần một tâm hồn biết lắng nghe thì sẽ tìm ra nhịp chung. Cái làm nên mối liên hệ chính là tình yêu văn chương, tình yêu văn hóa, tình yêu với con người.
Tôi cũng tin, Hồ Xuân Hương và Tôi không dừng ở một cuốn sách, mà trở thành tiếng gọi. Nó khiến ta thấy mình thuộc về một dòng chảy văn hóa lớn, nơi mỗi thế hệ đều có trách nhiệm nối tiếp, làm sáng thêm ngọn lửa cha ông. Bằng giọng văn hiện đại, đầy cảm xúc và sáng tạo của mình, Đông Di tiếp nối văn hóa từ Tiến sĩ Kiều Thu Hoạch, và từ chị, ngọn lửa ấy lại truyền sang độc giả. Đó là cách di sản dân tộc tiếp tục tỏa sáng, vượt qua biên giới thời gian.
Đi qua Nepal, gặp gỡ Hồ Xuân Hương, hành trình ấy nghe qua như hư ảo, nhưng mang lại một trải nghiệm chân thật đến lạ. Hãy thử mở Hồ Xuân Hương và Tôi đọc nó bằng trái tim. Bạn sẽ thấy Nepal không còn xa xôi, Hồ Xuân Hương không còn chỉ trong sách vở, và văn hóa Việt không còn là khái niệm trừu tượng. Tất cả trở nên gần gũi, sống động như hơi thở của chính mình. Bởi văn hóa không chỉ để ngưỡng mộ, mà để sống cùng, để bảo tồn, để trao lại cho mai sau. Và biết đâu, khi gấp sách lại, mỗi chúng ta cũng đã bước thêm một nhịp trên chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa dân tộc và nhân loại.
Dương Thị Thanh Ngân