Hồ Xuân Hương, Việt Nam, Thăng Long…

Nepal, Lumbini, Kathmandu…

Du lịch tâm linh ở nước ngoài, tức cảnh lẩy thơ, đàm luận văn học…

Tất cả những điều tưởng chừng chẳng hề liên quan ấy, nay lại được kết hợp trong một ghi chép kỳ lạ. Cái lạ nằm ở ngay từ trang bìa: tác giả ghi thể loại là truyện ký, nhưng nhan đề thì “đặc sệt” chất của tiểu luận phê bình cá nhân. Liệu sự tổ hợp này có thể tạo ra một tác phẩm thực sự?

Với Hồ Xuân Hương và tôi, câu trả lời đã rõ: Có! Thậm chí có thể đạt tầm một tuyệt phẩm. Điều kiện chỉ cần một yếu tố cốt lõi: Tình cờ và ngẫu nhiên hiện diện trên đường đời. Đợi đến một thời điểm nào đó, khi nhiệt huyết dâng trào, sức viết đang dồi dào, xuất ý thành chương sẽ là lẽ dĩ nhiên. Thời điểm ấy chính là chuyến đi tới Nepal huyền bí của Đông Di.

Tác giả thật tài tình khi dẫn dắt chúng ta đi từ suy luận này đến bất ngờ khác trong xuyên suốt mạch truyện. Hai chương đầu, hành trình của nhà văn song hành cùng Mỹ Lai, “cô tiểu thư khuê các của thời phong kiến – thực dân còn rơi rớt lại”. Ngay những bước đầu, Mỹ Lai liên tục vấp phải mâu thuẫn trong tư duy khi gặp hai nữ tu sĩ Phật giáo ở sân bay Suvarnabhumi và tại Lumbini. Sự tuyệt đối hóa mọi thứ khiến cô bị bất ngờ, đôi chút vỡ mộng, nghi hoặc về những điều mắt thấy, tai nghe. Đọc đến đó, tôi, và hẳn nhiều độc giả khác, không tránh khỏi việc vội vàng kết luận: đây hẳn là một tập sách phát triển bản thân (self-help), thông qua quá trình tự giải đáp những nghi hoặc của chính mình, phản chiếu qua nhân vật Mỹ Lai.

Nhưng từ chương ba, Hồ Xuân Hương và tôi như đang thay đổi thể loại. Mang lớp vỏ của một tập san du lịch, mạch truyện lúc này đi sâu vào địa hạt nhân học. Thông qua những cuộc đàm luận tưởng như bất tận giữa tác giả, Mỹ Lai và hướng dẫn viên bản địa tên Ram, các vấn đề về tôn giáo, lịch sử, văn hóa… lần lượt được khơi mở để phân tích. Trong phút giây hào hứng ấy, tác giả dần hướng suy nghĩ về những triết lý nhân sinh của Việt Nam và của toàn nhân loại. Rồi bất chợt bâng khuâng, Đông Di lại đau lòng nghĩ đến những nỗi bi ai phát sinh vì chính các vấn đề đó ở Myanmar, Sri Lanka… hay từ cuộc “sát tả” của phong trào Văn Thân trong thế kỷ XIX tại Việt Nam. Các sự kiện được điểm qua rồi lý giải một cách ngắn gọn, dễ hiểu. Dĩ nhiên, kết quả trả về có thể chưa “dài”, chưa thật trọn vẹn ý, và chắc chắn không thể thỏa đáng tất cả độc giả. Thế nhưng, chính sự gợi mở bất ngờ ấy đã khiến Hồ Xuân Hương và tôi khi này mang dáng dấp của một cuốn hỏi – đáp nhân học đang khoác lớp áo du ký. Một nét tinh tế đặc biệt và hiếm có.

Vậy còn Hồ Xuân Hương, “Bà chúa thơ Nôm” của chúng ta, đang ở đâu trong xuyên suốt tác phẩm đang viết về mình?

Trong năm chương đầu tiên, nữ sĩ chỉ xuất hiện rải rác trên hành trình thông qua những lần tác giả và Mỹ Lai tức cảnh lẩy thơ. Nhưng kể từ chương thứ sáu trở đi, sự hiện diện của bà trở nên rõ nét hơn. Bắt đầu từ cuộc gặp gỡ Tây Độc, một “chương buồn” của tác giả, đồng thời cũng là người am hiểu về Hồ Xuân Hương. Từ đây, một chuỗi đàm luận nghiêm túc về di sản của nữ sĩ được mở ra. Từ giải ảo hiện thực “dâm hay không dâm” trong thơ của bà, tầm quan trọng của Cổ Nguyệt Đường trong bối cảnh nhiễu nhương cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, đến những tấn bi kịch mà bà phải gánh chịu suốt đời… Tất cả được phân tích một cách cặn kẽ, đúng tinh thần phê bình văn học, xen kẽ giữa những cuộc gặp gỡ, những màn miêu tả cảnh vật trên đường đi, mang đậm chất bút ký hành trình mà ta từng bắt gặp trong Xách ba lô lên và đi của Huyền Chip

Đến chương chín thì mọi thứ mới thật sự vỡ òa. Ả Trần, một tu sĩ có gốc gác xa là người Việt, bất ngờ thi chuyển hồi quy tiền kiếp, bị Mộng Lan nữ sĩ, em thơ thân thiết của Hồ Xuân Hương, nhập đồng. Trong bầu không khí đậm chất liêu trai, Mộng Lan, trong thân xác Ả Trần, đối thoại cùng hai kẻ du hành, trả lời từng câu hỏi về đời mình và đời chị. Thơ được lẩy. Thơ được bình. Những cung bậc cảm xúc cứ thế dồn dập. Lúc dâng cao lên chót vót, rồi lại rơi xuống thẳm sâu, như cung đường Nepal mà các nhân vật đã đi qua.

Tất cả khiến “Bà chúa thơ Nôm” hiện lên vừa đời thường mà cũng thật phi thường: một con người của nghị lực, của tình yêu, của cái đẹp, của sự sống, giữa thời đại mà đạo Khổng – Mạnh đang bước vào con đường suy vong do chính mình tạo ra mà chẳng tự hay biết. Khoảnh khắc Đông Di òa khóc gục vào vai Ả Trần khiến tôi không khỏi liên tưởng đến cảnh tượng các môn đệ quỳ dưới chân Chúa Jesus hay Phật Thích Ca: giây phút chân thành, run rẩy, khi bao hồ nghi về nữ sĩ cuối cùng đã được giải tỏa. Khát vọng tái lập một Cổ Nguyệt Đường mới giữa thế kỷ XXI đã dần được nhen nhóm từ đây.

Hồ Xuân Hương và tôi đưa độc giả đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác theo đúng tinh thần của ký: Người viết cứ viết người thật, việc thật bằng cảm nhận của mình. Người đọc sẽ tiếp nhận theo cách riêng. Từ việc luận giải phần nào đang tương ứng với thể loại nào, cho đến những dấu ấn trong tâm khảm, thậm chí là những bài học cho bản thân. Cuốn sách không chỉ là một chuyến du hành tới Nepal, mà còn là cuộc hành trình nội tâm để đi tìm mình của mỗi nhân vật. Bằng một mạch truyện thẳng như đại lộ, sự hòa trộn giữa học thuật, chiêm nghiệm đời sống và đôi chút huyền bí, liêu trai của đất thần thánh trên đỉnh Himalaya, tác phẩm đã thổi một luồng sinh khí mới vào hình tượng Hồ Xuân Hương. “Bà chúa thơ Nôm” không còn bị đóng khung trong những bài thơ quen thuộc, hay trong những cuộc tranh cãi không hồi kết của hậu thế. Bà được tái hiện như bao người, mang nỗi đau, tình yêu, khát vọng, và cả sức mạnh vượt thoát để sống sao cho không thẹn với bất cứ điều gì.

Tác phẩm gieo cho chúng ta một thông điệp sâu xa rằng: lịch sử và văn chương không hề bó hẹp trong một giới chuyên môn, cho những cuộc nghiên cứu. Chúng vẫn đang sống trong mỗi con người, len lỏi trong ký ức tập thể, đồng hành trong từng chuyến đi, từng cuộc trò chuyện, từng câu lẩy thơ. Ở đó, quá khứ – hiện tại, cõi người – cõi mơ, dân tộc – nhân loại… đều gặp nhau. Trong cuộc kỳ ngộ ấy, Hồ Xuân Hương hiện lên như một biểu tượng của quyền năng sáng tạo, của sự can đảm đi tìm chính mình, của một tình yêu mãi nở hoa giữa những thời khắc nghiệt ngã nhất.

Hồ Xuân Hương và tôi đưa ta đi trong một cuộc hành hương, không chỉ tới Nepal, mà còn tới miền ký ức, tới một mảnh ghép cõi hồn của dân tộc. Những giọt nước mắt của Đông Di, bờ vai của Ả Trần, tiếng thơ của Mộng Lan… tất cả quyện lại thành một nghi lễ. Đó là nghi lễ để “trả lại” Hồ Xuân Hương cho đời, không phải như một tượng đài bất động, mà như một người chị, một người bạn, một con người với đủ vui buồn, thương nhớ…

Ngô Tiến Vinh