Chiến tranh. Với vô vàn định nghĩa nhưng luôn vắng bóng dáng hình phụ nữ. Họ bị đẩy sang bên lề, trở thành những đường biên mờ nhạt của những cuộc chiến. Họ là những nữ xạ thủ, bác sĩ, y tá, công binh, thợ bánh mì… – những người đã lặng lẽ cống hiến, chiến đấu và hy sinh đến mất đi tính nữ nhưng chẳng ai biết mặt đặt tên. Vì thế, “Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ” không phải là một tác phẩm bình thường. Nó là sự lên tiếng của hàng trăm người phụ nữ Xô viết từng trực tiếp sống và chiến đấu trong khói lửa Thế chiến thứ hai để viết thêm vào lịch sử những câu chuyện, những dáng hình khác.Không chỉ riêng phụ nữ, chiến tranh là tàn khốc, là đau thương, là mất mát của mọi nhà. Tôi nghĩ, đó chính là đích đến cao hơn của tác phẩm này. 

Chiến tranh và phụ nữ: sự đối nghịch

Không như đàn ông, phụ nữ không dễ dàng bước vào cuộc chiến. Và họ cũng đầy khó khăn khi bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Làm sao một người phụ nữ có thể tự tin với một thân thể không còn lành lặn? Làm sao họ có thể được yêu mà không rào cản?. Nếu đàn ông, bước ra khỏi trận mạc với đầy những huân chương và vẫn tiếp tục cuộc đời thì những tấm huân chương của phụ nữ đã xếp lại trong ngăn tủ, những lời ca ngợi chỉ còn vang vọng trong các lễ kỷ niệm, họ, những nữ chiến binh năm xưa, buộc phải học cách làm lại từ đầu, buộc phải trở lại làm một “người phụ nữ bình thường” trong một xã hội mà chiến tranh đã làm thay đổi mọi giá trị.

Một nữ chiến sĩ kể lại: “Tôi từng có kinh nguyệt rất đều, nhưng sau hai năm chiến đấu giữa rừng … tôi mất kinh hẳn. Chúng tôi không nói về điều đó. Ngay cả bác sĩ cũng chỉ nhún vai: ‘Chuyện nhỏ, sau này ổn thôi’. Nhưng làm sao có thể ổn được khi cơ thể mình không còn là phụ nữ nữa?”

Họ phải gánh chịu cả những định kiến giới như thể những vết sẹo trên thân thể là điều gì ghê tởm.

Hay một người mẹ giữa đêm tối, bị bao vây bởi lính Đức, đứa con thơ trên tay bật khóc. Trong khoảnh khắc sinh tử, cô đã phải dìm con mình xuống nước để bảo toàn mạng sống cho cả đơn vị. Cô nói:

“Tôi chẳng còn nhớ giây phút đó rõ nữa. Chỉ biết, bàn tay tôi run lên. Một bên là mấy chục con người, một bên là giọt máu của mình. Chiến tranh không cho phép tôi được làm mẹ.”

Chiến tranh buộc người ta phải đưa ra những quyết định phi nhân tính để sống còn. Và người phụ nữ ấy, sau khi trở về, không thể chạm vào bất cứ đứa trẻ nào mà không bật khóc. Cô không lập gia đình, không muốn ai gọi mình là “mẹ”. 

Chiến tranh tàn nhẫn xoá nhoà thiên tính nữ 

        “Người ta cần một chiến binh, nhưng tôi thì vẫn còn mơ son môi và những chiếc váy hoa”.

Chiến tranh đã bùng nổ, bất ngờ và dữ dội như một cơn lốc trong độ tuổi 18 của các cô gái. Không ai kịp chuẩn bị, không ai kịp học cách đối mặt với nó. “Chúng tôi nghĩ rằng mình có thể thắng nhanh, vài tuần thôi, giết hết bọn Đức là xong!”. Họ không biết chiến tranh là gì. Không ai trong số họ từng nổ súng, chưa ai cắt cổ gà, giết con cá, chưa ai sống xa nhà lấy một ngày. Vậy mà họ lại lên đường, với một lòng  tin rực cháy, rằng tình yêu đất nước sẽ làm nên phép màu.

Và rồi, chiến trường mở ra trước mắt họ không phải là một bài hùng ca như những gì người ta từng viết. Họ phải cắt mái tóc từng nâng niu suốt bao năm. “Tóc tôi đẹp lắm,” một cô gái nhớ lại. “Cắt đi, tôi cảm thấy mình như không còn là mình nữa.”. Quân phục chỉ phát hai bộ đồ lót. Có cô cắt vải từ vớ, có cô… “chôm” áo may-ô của đồng đội nam. 

Những cánh tay yếu mềm từng quen thêu thùa giờ phải nhấc pháo, vác thương binh, xông pha trong mưa đạn. Họ không được phép khóc “Chiến trường không chừa chỗ cho nước mắt. Khóc xong thì vẫn phải kéo xác đồng đội ra khỏi đống gạch vụn.” – một y tá nói vậy.

Có những nữ chiến sĩ khi bóp cò lần đầu tiên đã ngất lịm vì đó là lần đầu tiên cô giết một người. Sau đó cô nôn suốt ba ngày và ngủ trong hầm , không ăn,  không nói gì. Vì chính các cô không muốn trở thành kẻ sát nhân.

Nhưng thiên tính nữ trong họ vẫn rất mãnh liệt và bền bỉ

Một nữ chiến binh từng chia sẻ rằng điều cô sợ nhất không phải là bị bắn chết, mà là cái chết làm cơ thể cô trở nên dị dạng, xấu xí: “Tôi sợ chân mình bị nát, vì tôi có đôi chân đẹp…Tôi muốn được nhớ đến như một cô gái đẹp.”. Như một nhóm nữ chiến sĩ khác, khi được đóng quân gần một tiệm làm đẹp, đã tranh thủ chạy vào uốn tóc, chuốt mi. Khi bị chỉ huy phát hiện và mắng té tát, các cô gái òa khóc. Họ bị phạt, nhưng không ai hối hận. Họ biết: “Tôi vẫn là phụ nữ. Tôi vẫn còn sống.”

Và khi không còn cơ hội trang điểm, các cô gái ấy lén thêu khăn, may vá trong doanh trại. Có cô giấu mảnh ren nhỏ trong túi áo lính. 

Svetlana đã ghi lại một cách xót xa: “Tôi luôn nghĩ: cái gì còn thì sẽ sống. Mái tóc tết của tôi còn, chiếc gương nhỏ trong túi áo còn, giấc mơ được mặc váy trắng cưới còn… nghĩa là tôi chưa bị chiến tranh giết chết.”

Có thể sẽ có người bảo: những điều ấy thật vặt vãnh, không xứng đáng trong chiến tranh. Nhưng sự thật là: chính những điều tưởng như nhỏ bé ấy mới giữ họ lại với nhân tính. Nếu họ không còn khao khát cái đẹp, không còn mong được sống như một cô gái, thì chiến tranh đã thắng hoàn toàn rồi.

Sự lên tiếng cho những giọng nói bé nhỏ khuất sau ánh hào quang

Tuy họ đã thực sự sống và chiến đấu trên cùng một chiến trường với nam giới, nhưng câu chuyện của lại vô hình trong ký ức chung về cuộc chiến. Một người phụ nữ từng là lính pháo binh, khi được phỏng vấn, đã nói nhỏ: “Nếu cô cần những con số, những trận đánh, những tướng lĩnh thì chồng tôi nhớ rõ hơn tôi. Tôi chỉ nhớ đôi giày bị rách, lần đầu tiên có kinh nguyệt giữa rừng, mùi bùn bám đầy tay khi tôi băng bó cho người lính đầu tiên sắp chết”.

Và chính từ những câu chuyện tưởng như vụn vặt ấy là một bản đồ chiến tranh mềm mại, nhưng cũng đầy ám ảnh. Đó là lần một cô gái trẻ được đồng đội xúm lại để “ngửi mùi của nhà”. Đó là một nữ xạ thủ sau khi bắn hạ con ngựa yêu quý trong đơn vị đã không ăn miếng thịt nào từ nó, mà ngồi khóc trong góc suốt cả buổi tối. Là hình ảnh những cô gái bị cắt tóc sát da khi nhập ngũ, lặng lẽ cất từng lọn tóc dài vào túi áo như thể chôn vùi cả một phần đời.

Tác phẩm không né tránh sự thật. Nó đối diện với nỗi kinh hoàng không chỉ từ bom đạn mà từ chính sự tàn nhẫn của chiến tranh đối với nữ giới. Một cô gái trẻ từng là lính thông tin tâm sự rằng cô sợ nhất là khi bị thương nặng: “Không phải vì đau đớn, mà vì sợ sẽ không thể làm mẹ nữa. Tôi chỉ mới mười bảy tuổi…”.

Chính vì vậy, tác phẩm đã khẳng định: rằng không có trải nghiệm nào là quá nhỏ để không được lắng nghe, rằng phụ nữ không chỉ là nhân chứng, mà là một phần không thể tách rời của lịch sử. Nếu lịch sử chỉ được viết bằng một nửa sự thật, thì đó chưa bao giờ là lịch sử. Cuốn sách là lời thì thầm đau đớn, nhưng cần thiết, từ một nửa thế giới mà ta đã lãng quên quá lâu.

Nguyễn Thị Ánh Mai