“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”-đó là câu nói vang vọng về quyền tự do con người trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ năm 1776, cũng như là câu mở đầu bất hủ khi chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu trước toàn dân vào ngày 2 tháng 9 năm 1945-mở đầu cho một nhà nước dân chủ, do dân và vì dân tại Việt Nam. Những giá trị nhân bản này đều được ảnh hưởng từ một nhà triết gia người Anh tên là John Locke, với cuốn “Khảo luận thứ hai về Chính quyền” đã đặt nền tảng lý luận sâu sắc cho pháp quyền phương Tây.

John Locke(1632-1704) sinh ra trong một gia đình Thanh Giáo không nhiều tiền của nhưng với sự bảo trợ mà ông đã được học tập đầy đủ, giảng dạy tiếng Hy Lạp và hùng biện ở Christ Church; sau này Locke tiếp tục theo học ngành y. Do đó mà ông tiếp xúc với Bá tước xứ Shaftesbury-một người quyền lực nhất nước Anh, khiến ông trở thành không chỉ bác sĩ của Bá tước mà còn với tư cách của một người thư ký, nhà nghiên cứu, người chuyên trách chính trị và cũng như, một người bạn. John Locke thực sự tiếp cận với mối quan hệ của quý tộc cũng như hấp thu tư tưởng cấp tiến vào thời ấy. Tuy vậy ông cũng trải qua khó khăn do vấn đề nội chiến, đấu tranh chính trị và tôn giáo mà Locke phải lưu vong ở Hà Lan cho đến khi cách mạng Vinh Quang(1688) giúp vua William III đăng quang, thiết lập nền quân chủ lập hiến mà ý chí toàn dân do Quốc hội đại diện. Ông tiếp tục viết sách và công bố các tác phẩm sau cuộc cách mạng, trong đó có “Khảo luận thứ hai về Chính quyền”

Cuốn sách “Khảo luận thứ hai về Chính quyền” được John Locke xuất bản vào năm 1690, là một cuốn sách về triết học chính trị thể hiện quyền tự nhiên của con người và khế ước xã hội; xuất hiện vào lúc sau thời kỳ hỗn loạn mà đã khiến ông phải tỵ nạn ở xứ người. Thời đại mà cả lục địa châu Âu nói chung đã trải qua những cuộc chiến đẫm máu, khốc liệt tôn giáo giữa phe Công Giáo và Tin Lành cũng như nước Anh nói riêng-trải qua cuộc chiến tranh giữa phe Quốc Hội và phe Bảo Hoàng, khủng hoảng của dự luật tống xuất Quốc Vương James II . Trải qua những bất ổn xã hội này, John Locke với quan điểm của một người ủng hộ quyền tự do con người, bao dung tôn giáo và xây dựng hành pháp công bằng, đã ủng hộ việc một vị vua tuy gốc gác ngoại bang như William III(sinh ở Hà Lan) nhưng lại hoàn toàn có những giá trị quan phù hợp với ông. Sự ra đời của cuốn sách “Khảo luận thứ hai về Chính quyền” là lát gạch đầu tiên cho hệ tư tưởng đặt giá trị tự do cá nhân hiện đại.

Cuốn sách được chia thành 19 chương kể về các hình thái xã hội, chính trị và quyền lực của con người cũng như các khuôn khổ để thiết lập các cơ quan quyền lực đảm bảo sự công bằng và ý chí cộng đồng. Sinh ra trong gia đình Thanh Giáo nên sự ảnh hưởng của Kinh Thánh lên suy nghĩ và cách John Locke thể hiện cũng có phần đề cao giá trị của Thiên Chúa Giáo. Như trong chương V:Sở Hữu, ông đã nói Thượng Đế “đã trao tặng thế giới này chung cho mọi người, và cũng đã cho họ lý do để sử dụng nó, nhằm có được sự thuận lợi cao nhất và tiện nghi cho cuộc sống”(§28)-Chúa tạo ra thế giới này cho con người và con người phải cố gắng tận dụng nó để có lợi cho mình. Trong chương V này Locke cũng nói rõ về quyền tư hữu của một cá nhân không thể nào bàn cãi, rằng “lao động từ cơ thể một con người, sản phẩm từ đôi tay của người ấy, thì đích thị là của con người ấy”(§27) và một người “được nuôi sống bằng số quả nhặt dưới gốc sồi hay những trái táo thu lượm từ cây rừng, đã được anh ta giữ lấy chắc chắn cho riêng mình. Không ai có thể phủ nhận số thực phẩm là của người ấy.”(§28). Chương V thực sự là chương nổi tiếng nhất trong cuốn sách, vì nó nói lên về sự tiến hóa của quyền tư hữu từ việc chiếm hữu trái lượm cho đến các loại tài sản phức tạp hơn, và thể hiện một sự quan trọng trong thiết lập chính quyền dân sự đảm bảo tài sản của mỗi cá nhân được bảo vệ, thay thế cho trạng thái tự nhiên ban đầu.

Locke phân định ra có hai hình thái riêng biệt: trạng thái tự nhiên và xã hội dân sự. Trong trạng thái tự nhiên thì con người có tự do ở mức hoàn hảo, muốn làm gì thì làm, tự tung tự tại nhưng đổi lại những kẻ khác cũng có thể sử dụng sức mạnh để ức hiếp, ép buộc người khác phục vụ cho mình, thậm chí quyết đoạt mạng sống. Trạng thái tự nhiên là trạng thái của các bộ lạc, dân sống vô chính phủ, chế độ quân chủ chuyên chế và chế độ độc tài vì chúng điển hình cho việc một người hoặc một nhóm người áp đặt sức mạnh của mình lên kẻ khác, nhưng đám người đó thì miễn trách nhiệm với bất kỳ hành vi nào do mình tạo ra. Còn xã hội dân sự là nơi mà con người sống trong một nơi có luật pháp và có cơ quan tư pháp để xử lý vấn đề, những điều này được thực thi khi con người từ bỏ trạng thái tự nhiên “và trao quyền này cho cộng đồng, thì khi đó – và chỉ khi đó – nó là một xã hội chính trị, tức một xã hội dân sự”(§89). “Không một ai trong xã hội dân sự có thể được miễn trừ trước luật pháp”(§94) chính là giá trị cốt lõi, thể hiện sự bình đẳng của mọi con người khi đứng trước pháp luật.

Hơn thế nữa, John Locke đã thể hiện giá trị nhân bản và ý chí của nhân dân trong cuốn sách của ông. Như trong chiến tranh, nếu kẻ chinh phạt phải tôn trọng quyền sở hữu của kẻ thất trận và con cháu của kẻ thất trận vì họ là những con người tự do, “và sỡ hữu của họ, dù nhiều hay ít, đều là của riêng họ và thuộc quyết định của chính họ chứ không phải của kẻ chinh phạt; nếu khác đi, đó không hề là sở hữu.”(§194). Mọi quốc gia đều có hưng thịnh một thời và đều có suy tàn sụp đổ, hoặc bởi xã hội tan rã bên trong hoặc bởi ngoại bang xâm lược bên ngoài; nhưng quyền sở hữu, quyền giá trị và tự do của cá nhân không thể hoán đổi trong một xã hội dân sự. “Nhân dân có quyền hành động với tư cách quyền thể tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp, hoặc dựng lên một hình thức chính quyền mới, hoặc vẫn là hình thức cũ nhưng đặt vào tay những con người mới, theo những gì họ cho là tốt đẹp”(§243), nó khẳng định rằng ý chí nhân dân chính là yếu tố quan trọng của việc thiết lập chính quyền mà tốt nhất cho họ.

“Khảo luận thứ hai về Chính quyền” đã thực sự thể hiện một nhà nước pháp quyền mang tính công bằng, văn minh và tôn trọng quyền cá nhân mà John Locke hằng mong muốn; là giá trị nhân văn sơ kỳ cho một thời đại mà được gọi sau này là Thời kỳ Khai Sáng. Quyền tư hữu, tự do tín ngưỡng và cá nhân ảnh hưởng tới các cuộc vận động chính trị thời Khai Sáng bao gồm Cách mạng Hoa Kỳ, Cách mạng Pháp: chúng sau này mở rộng và phát triển thành các cuộc cách mạng, đấu tranh giành độc lập, hình thành các chính phủ dựa trên ý chí của nhân dân. 

Vũ Lê Anh Minh