Chiến tranh vốn là đề tài mà người trẻ e ngại. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nam Cao đã từng lên tiếng khẳng định “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than”. Để người trẻ chạm đến nơi u uất đẫm máu tột cùng của một dân tộc, ắt ta phải chạm trán với chúng thêm một lần nữa để thấy được cái kinh khủng của những kiếp người ra đi giữa biển lửa hoang tàn. Nhưng ai đâu lại muốn chạm đến chúng? Một đứa con lạc mẹ giữa biển người, tiếng nấc tuyệt vọng đứt ruột vang lên khi mẹ già mất đi đứa con mà chẳng được gặp mặt lần cuối, những trận đấu oang oang tiếng bom rơi, tiếng người “xung phong”… Ai đâu lại muốn?

Bởi thế mà tác phẩm về chiến tranh đều lần lượt ra đời từ những nhà văn gạo cội đã từng dấn thân vào mùa mưa đỏ năm ấy. Hơn ai hết, họ hiểu được cái đau đớn khi đứng trên sa trường, đau đớn trước cảnh hi sinh của đồng đội. Vì họ đã từng là một phần của chiến tranh.

Xuất thân là người lính, chứng kiến vô vàn sự hi sinh của đồng đội, Bảo Ninh luôn khiến con người ta phải thảng thốt vì cảm xúc mà nhà văn mang lại quá đỗi chân thành, nhưng đi sâu vào trong các kẽ hở, người ta phát hiện một kẻ cô độc, lẻ loi đang khâu vá các vết nứt trong lòng thành câu chuyện đẫm lệ. Có lẽ thứ cảm xúc đang quặng mình trong cơ thể ấy chính là khối tài nguyên to lớn để “Nỗi buồn chiến tranh” ra đời.

Tôi còn nhớ da diết năm ấy mình đi trên con đường mà cha ông dùng máu vẽ lại, lật từng trang truyện, Nỗi buồn chiến tranh cho tôi gặp gỡ một cựu chiến binh Kiên – chàng trai giàu lòng trắc ẩn. Sau khi bước chân ra khỏi chiến tranh, anh vẫn không thể nào thoát ra khỏi vòng vây ký ức. Chúng như một mê cung thăm thẳm, mà Kiên lại chẳng thể nào tìm đường thoát ra, ngày một lạc lối. Kiên sinh ra tại Hà Nội. Cha anh là họa sĩ, mẹ là Đảng viên. Thế nhưng mẹ không chấp nhận tính cách lập dị khác người của cha anh nên đã tái hôn với một nhà thơ tiền chiến. Độ mười bảy, khi đứa nhóc ngày nào đã trở thành một chàng trai cùng với sự gan dạ, Kiên gác lại bút sách lên đường nhập ngũ. Những năm tháng có vui buồn, có tang thương, ai oán đủ khiến thiếu niên vừa trưởng thành hiểu rõ hơn về sự khốc liệt của thế giới. Bi thương trải dài, Kiên may mắn trở về với vô số vết thương trên người, và vết thương lòng vẫn còn đang rỉ máu mà chẳng một thứ thuốc nào có thể chữa lành. Bước ra từ khói lửa, anh vẫn không thể thôi ám ảnh, sống với ký ức lẫn thực tại mà chẳng thể phân biệt, người ta gọi ấy là sang chấn tâm lý sau chiến tranh.

Tôi đã từng bắt gặp một câu nói đại loại như vậy, “Hòa bình rồi sao? Hòa bình rồi sao không thấy đồng đội tôi trở về?”. Có lẽ Kiên đã sống mà day dứt như thế, cùng với những hồn ma mà hằng đêm vẫn vây quanh trong cơn mơ, “Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh.”. Anh tham gia vào đội thu nhặt hài cốt tử sĩ. Sau khi trở về quê nhà, Kiên chọn dùng bút khắc họa lại bức tranh vẫn mãi xuất hiện trong đầu. Thế nhưng gạch đi viết lại, anh vẫn chẳng thể nào hoàn thành câu chuyện, bản thảo chẳng có nổi một cái kết. Sự dở dang ấy đã được người đàn bà câm mang lên cất cẩn thận ở tầng áp mái. Cứ ngỡ chúng đã bị lãng quên, bằng một cách nào đấy nhân vật “tôi” có được trong tay mình mẫu bản thảo. “Tôi” đọc chúng và thận trọng ghi chép lại thay lời cảm ơn những điều tuyệt vời mà Kiên đã dùng máu để viết, rồi chợt nhận ra, họ có chung một nỗi đau về chiến tranh mênh mang. Họ đều đang sống và hướng đến hai chữ “Hoà bình”.

Cái khiến tôi phải bàng hoàng chính là nỗi đau khốn khổ của người lính,  “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại chút xương.”, chỉ bằng một lần đưa bút, ông đã khiến hàng triệu con tim day dứt. Khi người ta chìm đắm trong chiến thắng, vậy còn những người đã can trường chiến đấu và hy sinh ấy… họ sẽ ra sao? Họ cảm thấy thế nào? Người ta vẫn thường chìm đắm trong hư vinh của những trận chiến thắng, mà ít để tâm đến thiệt hại của những trận chiến trước đó  “Máu tới bụng, chân lội lõm bõm”.Với hiện thực chẳng thanh cao mà chỉ nhuốm đầy ti tiện của con người, “Chiến tranh là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”, tôi bất ngờ, suy tư rồi đau đớn nhận ra một hiện thực oái ăm. Thi nhân đã trực tiếp đánh vào điểm nhức nhối nhất của chiến tranh. Nó có sát thương mãnh liệt đến nổi đập tan sự ảo tưởng về vinh quang hào hùng mà người ta vẫn thường ca ngợi. Từng câu chữ đầy phẫn uất, như một tiếng khóc than khổ đau của những con người từng đi qua chiến tranh. “Chỉ sợ chúng mình sẽ không kịp sống và yêu… Không kịp, đã mất hết.”, Phương nói như đã thấu thị hết tất cả bằng giác quan nhạy cảm đã khiến tôi choàng tỉnh trước đoạn tình mộng mơ. Thật vậy, chiến tranh ác liệt đã đoạt mất quyền cơ bản của con người, quyền được yêu, được sống.

Tôi xót thương cho phận anh, một cựu chiến binh từng lẫm liệt trên chiến trường ngoài xa. Chẳng biết bao nhiêu lần, trong những khoảnh khắc âm ỉ của cuộc đời, tôi hoạ hình ảnh Kiên trong đầu với từng hơi thở gắn liền với chiến tranh. Chao ôi! Thời ấy đẫm lệ hơn nhiều, tôi chìm đắm trong trang viết của Bảo Ninh – như một lần được chứng kiến thời đại ấy bằng chính nhịp thở.

“Nỗi buồn chiến tranh” không rập khuôn với những góc nhìn của các nhà văn khác, Bảo Ninh xoáy sâu vào cái hiện thực vốn có đầy bi đát làm nổi lên mặt tối chiến tranh và con người thời ấy. Ông đã thành công khi khai thác nỗi ám ảnh dày vò tâm lý người lính – điều mà chưa từng được chứng kiến trong các tác phẩm khác. Góc nhìn đặc biệt đã khiến cho độc giả không khỏi tò mò, để rồi day dứt mãi. Các con chữ mà ông hoạ lên thật hoa mỹ, như thể chúng sinh ra là để miêu tả Kiên – cựu chiến binh tiểu đoàn 27.

Chiến tranh đã đi qua, tôi nghiền ngẫm lại lịch sử qua trang sách rồi thảng thốt “Hoá ra lịch sử đã từng tăm tối, u uất như thế”. Từng giọng văn của Bảo Ninh như hoá thanh âm truyền vào tai tôi một cách mãnh liệt, khiến con tim được chôn chặt bên lồng ngực trái bồi hồi thao thức. “Để cho đất nước yên vui từ đó, để cho đỏ thắm màu cờ tự do” (Viết tiếp câu chuyện hoà bình), đã từng có một tiểu đoàn gào thét giữa rừng B52 vây quanh, “Thà chết không hàng….anh em thà chết!”.

Chúng ta không thể cưỡng cầu một hạnh phúc, chúng ta có quyền được hạnh phúc với chính hòa bình. Một cựu chiến binh đã từng bật khóc,“Tự do – hoà bình không phải dễ, có được phải biết giữ lấy.”. Thật vậy, khép lại những trang sách cuối cùng của Nỗi buồn chiến tranh, điều mà Bảo Ninh muốn gửi gắm đến cho độc giả cũng như các thế hệ bao năm: hãy nhớ lấy lịch sử đã từng oanh liệt, đau thương đến nhường nào. Bởi nếu thế hệ trẻ không biết lịch sử viết bằng máu, thì họ phải viết lại bằng máu của chính mình.

Trần Thị Thạch Thảo