Mối tình nào là thứ khiến bạn day dứt nhất? Mối tình nào mà bạn ước đi quay ngược thời gian để sống lại thật hồn nhiên của những năm tháng đó? Tiểu thuyết gia Nhật Bản nổi tiếng thế giới Haruki Murakami đã trả lời câu hỏi này bằng cách chấp bút nên tác phẩm “Rừng Na Uy” – bản tình ca bất diệt của thanh xuân tuổi trẻ, đưa người đọc vào những khoảng lửng lơ, mênh mông, vô hình chốn ái tình. Đó là nơi ông khắc họa đêm dài thao thức của những con người đang yêu, sự nổi loạn, trốn tránh của Thế hệ lạc lõng (The Lost Generation). Tất cả, những gì cuộn trào, sóng dâng của một trái tim thổn thức đều được bộc bạch, được thể nghiệm trung thực, không lãng mạn, cũng không thi vị hóa.
Scott Reyburn trong tờ New stateman của Vương Quốc Anh đã nhận xét: “Văn ông không thuộc trường phái nào, nhưng lại có chất gây nghiện của loại văn chương tuyệt hảo nhất”. Loại “văn chương tuyệt hảo” ấy có chăng là những thực tại quẩn quanh của cuộc sống đời thường được chạm tới một cách chân xác, gợi lên ý niệm cộng sinh, mời gọi bạn đọc cùng phiêu lưu và trải nghiệm? Giữa bốn bề của thời đại ngày nay, khi kết nối của con người dần bị đứt gãy, dần lệ thuộc vào số hóa, ta lại càng khao khát những điều thành thật và thẳng thắn. “Rừng Na Uy” đã làm được điều đó. Nó đào sâu, khỏa lấp những khoảng trống con người bằng thực tế sâu kín mà ta ngần ngại tỏ bày. Không gì hơn cái khao khát được toàn quyền với cái đẹp, với ái tình và dục vọng của thời thanh xuân nhiệt huyết. Dù xuất hiện lần đầu tại Nhật Bản vào năm 1987, mối tình tay ba giữa Wantanabe – Naoko – Midori làm hàng chục triệu độc giả thế giới phải tiếc nuối, hòa lẫn trong đó là sự giằng xé giữa thể xác và tâm lý. Không chỉ Watanabe mà tôi cũng tự hỏi: “Là Naoko, hay là Midori?”
Bằng giọng văn tự sự, Murakami hóa thân vào tâm trạng của nhân vật chính Watanabe Toru vào thập niên 60 của thế kỉ XX, khoảng thời gian biến động của anh. Anh có một mối tình rất đẹp với Naoko, người con gái thanh thuần và mẫn cảm với mọi thứ. Do ảnh hưởng tâm lý bởi người chị đã tự tử của mình, Naoko đã vào một khu điều dưỡng với các bệnh nhân. Khoảng thời gian vắng bóng tình đầu, anh tự do chạy theo nhục dục của chính mình và quen biết Midori – cô nàng cá tính dường như sở hữu tất cả những đặc điểm mà Naoko không có. Vẻ ngoài hoạt bát, thích nấu ăn đã làm tôi “định kiến” Midori là một người vui vẻ, nhưng trái lại, trong sâu thẳm trái tim cô là người cô đơn, thèm khát sự yêu thương chân thành.
Giữa những so sánh kém – hơn, đôi khi ta quên rằng ai cũng có một vị trí không thể thay thế trong lòng người khác. Cả hai đều là những gì rất thương yêu của Toru, mỗi người, với vị trí và vai trò khác biệt, đều thay nhau xoắn quýt trong cuộc đời của cậu. Bởi thế càng đọc tôi mới càng nhận thức được, không có gì thuộc về tuyệt đối, không ai hơn ai và cũng không có gì sẽ ở bên tôi mãi mãi. Đọc “Rừng Na Uy” tôi mới thật sự chiêm nghiệm rằng: Mất mát, cô đơn là một phần của cuộc sống. Học cách đón nhận nó, không chỉ tôi mà tất cả chúng ta mới thật sự thoát kén và trưởng thành.
Không thể không nói, âm nhạc là chất xúc tác lớn trong tác phẩm này. Bản thân nhan đề tác phẩm “Rừng Na Uy” cũng là tên bài hát của The Beatles – ban nhạc Rock huyền thoại nước Anh. Lời ca có những câu: “Tôi từng có một cô gái, mà có lẽ đúng hơn là cô ấy đã từng có tôi… Cô dẫn tôi vào phòng và bảo tôi ngồi đâu cũng được, nhưng tôi thấy chẳng có chiếc ghế nào… Khi tỉnh dậy tôi chỉ có một mình, con chim ấy đã bay đi rồi…”. Chính bài hát này cũng là dịp để chàng thanh niên Watanabe Toru 38 tuổi vừa đặt chân tới Hamburg, Đức hồi tưởng lại mối tình đầu với Naoko những năm 1960s đầy biến động của mình. Âm nhạc trong “Rừng Na Uy” hiển hiện khắp nơi. Những li rượu với bản jazz nhẹ nhàng. Những đêm cô đơn với bản rock mạnh mẽ. Những đêm không có nhạc, biển gọi anh bằng làn sóng du dương. Vô hình trung, âm nhạc trở thành dòng chảy xuyên suốt trong đoạn đời nhân vật. Âm nhạc là một người bạn luôn đồng hành với bản thể đầy cô đơn như anh.
Không chỉ tình yêu và âm nhạc, văn hóa đại chúng cũng được đề cập hết sức sâu sắc. Những tâm hồn phản kháng văn hóa và định kiến, yêu rock’n’roll và ti tỉ thứ đổi thay khác ở chốn phồn thực hãnh tiến. Nỗi bơ vơ và lạc lõng cùng cực trong thời đại Tây hóa ở Nhật Bản như châm ngòi cho sự thoát li thực tại ở các nhân vật. Kizuki tự vẫn khi chỉ mới mười bảy, Hatsumi tự tử vì thất vọng với Nagasawa. Họ có phải là “Lũ chúng ta” không thể dung hòa với xã hội mà khao khát đến với “bến hoang sơ” như nhà thơ Vũ Hoàng Chương có viết:
“Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ.
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ”
(Phương Xa, Vũ Hoàng Chương)
Những cái chết đó khiến Toru học được bài học và biến thành một phần của con người mình dưới dạng triết thuyết: Sự chết tồn tại không phải như một đối nghịch mà là một phần của sự sống. Tôi và Toru cũng chuẩn bị tâm lý cho những mất mát tiếp theo, nhưng vẫn không sao ngờ được, chính Naoko – tồn tại yêu thương của anh cũng ra đi tự thân. Naoko treo cổ ở một cánh rừng nào đó sâu thăm thẳm như lòng cô. Trái tim tôi và Toru cũng vỡ nát, khi hết hơi và thều thào mới kịp nhận ra: Không có chân lí nào có thể làm dịu được nỗi đau buồn khi chúng ta mất đi một người yêu dấu. Nhưng dù sao đi nữa, như chị Reiko – người đã chăm sóc Naoko suốt quãng thời gian bệnh tật đã nhắc nhở chúng tôi rằng: “Tất cả chúng ta đều là những con người bất toàn sống trong một thế giới bất toàn. Chúng ta không sống với sự chính xác cơ khí của một chương mục ngân hàng hoặc bằng cách đo đắn mọi đường nét và góc cạnh của chúng ta với thước dây và máy ngắm”.Chúng ta nên và bị buộc phải sống tiếp trong sự phi lý, hạnh phúc ngay đi trong hiện tại. Bằng không, cả quãng đời còn lại, ta lại phải sống trong mặc cảm và cố gắng bù đắp cho những chấn thương đã trôi qua…
Văn chương ư, nó sẽ là gì nếu không phải một “thế giới trắng” được kiến tạo cầu kì và giản dị từ hiện thực đời sống. Nó đưa người ta đến những mơ hồ, chồng lấn và bất định để truy vấn bản thể của chính mình. “Mình có yêu không?”, “mình còn yêu không?” được đặt ra để biết rung cảm với cuộc đời, với những hạnh phúc mong manh mình may mắn có được. Bản thân tác phẩm cũng như xiêm y mĩ nhân, có nhiều lớp lang để lần mở tùy vào tấm lòng người đọc, nói như dịch giả của cuốn sách này: Trịnh Lữ. Những cuộn sóng trào dâng của Haruki Murakami vẫn cứ xô vào lòng bạn đọc từng phút từng giây trên thế giới, để mỗi lần đọc là một lần thể nghiệm, một lần được bồi hồi với những kỉ niệm đau đớn dấu yêu.
Lưu Nguyễn Phương Thuỳ