“Sông Ô Lâu ngân nga soi núi biếc chập chừng

Soi đoàn quân quyết tử hiên ngang

Sông Ô Lâu đôi bờ tóc trắng lau 

Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu.”

                                                                                     ( Sông Ô Lâu kháng chiến – Quỳnh sơn ca)          

   Những câu hát hào sảng và cảm động ấy vang lên như bản trường ca về lòng yêu nước, về tinh thần bất khuất của bao thế hệ người Việt trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Lời ca ấy, không chỉ là nhạc điệu về một dòng sông Ô Lâu đồng hành cùng người lính, mà nó còn là lời thì thầm về quá khứ, như tiếng vọng ngân nga về một thời kỳ khổ đau. Giữa khúc hát chan chứa máu xương và khát vọng độc lập ấy, có những đứa trẻ mới chỉ mười ba, mười bốn tuổi đã sớm khoác trên vai màu áo lính, mang trong tim lý tưởng cao đẹp và khát vọng hy sinh vì Tổ quốc. Và “Tuổi thơ dữ dội” của nhà văn Phùng Quán chính là một khúc tráng ca về những người lính trinh sát nhỏ – những đứa trẻ nhỏ tuổi nhưng mang trái tim rực lửa, gan góc, kiên trung và đầy cảm xúc. Tác phẩm không chỉ khắc họa một cách chân thực hiện thực kháng chiến, những  đau thương mất mát mà còn là bản hùng ca của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm tháng không thể nào quên của lịch sử dân tộc. Như dòng sông Ô Lâu với lời thề kháng chiến không phai, “tuổi thơ dữ dội của những “người lính nhỏ” không bao giờ quên lời thề bảo vệ quê hương, với niềm tin và khát khao cháy bỏng, “hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu” để đem lại hòa bình độc lập, cho dân tộc được ấm no hạnh phúc.

   Mười bốn tuổi, ở cái tuổi mà bọn trẻ sống trong hòa bình được rộn ràng, hớn hở đến trường học tập, được nô đùa vui chơi, thì “tuổi thơ dữ dội” của các em thiếu niên trình sát ở Trung đoàn Trần Cao Vân lại là những ngày tháng trải quá bom đạn, máu và nước mắt. Khi mà khói lửa chiến trường trở thành thứ quá đỗi quen thuộc, khi mà cái chết đối với các em chẳng còn là điều sợ hãi, khi những đứa trẻ hóa thành người hùng, mang trên vai sứ mệnh cao cả của đất nước linh thiêng, của Tổ quốc muôn đời bất diệt.

Quỳnh – sơn – ca sống trong nhung lụa, được học hành, được theo đuổi đam mê, ấy thế mà chỉ vì mê những khúc nhạc kháng chiến mà bỏ nhà theo Vệ Quốc Đoàn chiến đấu. Em như một cánh chim sơn ca giữa chiến trường khốc liệt, mang trong mình tâm hồn trong trẻo, yêu ca hát và khát khao tự do. Dù sống giữa bom đạn, Quỳnh Sơn ca vẫn giữ được nét hồn nhiên của tuổi thơ, vẫn cất cao tiếng hát như xua tan nỗi đau và gieo hy vọng giữa màn đêm đen của chiến tranh. Giây phút Quỳnh – Sơn – ca phát hiện cha mình là một đại Việt gian bán nước theo Tây, là kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội lại lý tưởng mà em đang quên mình mà chiến đấu là khoảnh khắc trái tim em như bị xé toạc. Trái tim bé nhỏ vốn tràn đầy khát vọng, yêu thương và những khúc hát trong trẻo, giờ vỡ tan bởi chính bàn tay máu lạnh của hiện thực tàn nhẫn. Em ngã xuống không phải vì bom đạn, mà vì vết thương tinh thần tàn nhẫn từ chính cội nguồn của mình. Quỳnh Sơn ca – em đã chết vì vỡ tim, vì tim mình không thể chịu nổi sự phản bội, nhưng cũng vì em quá trong sáng, quá trung thực, đến mức không thể sống chung với điều nhơ bẩn ấy. Em chết như một khúc hát nghẹn lại giữa chừng – đẹp, xót xa, và vĩnh viễn ngân vang trong lòng người. “ Vú với chị về nói với ba mạ em. Em nghe chuyện ba em rất xấu hổ. Tội của ba với kháng chiến to lắm, mà em còn nhỏ quá, không đủ sức chuộc tội cho ba…” 

Chiến tranh đã mài giũa nên một Vịnh-sưa với lòng yêu nước thuần khiết chăm chỉ, cần mẫn và kỉ luật nhưng cũng đã lấy đi tuổi thơ của em, lấy đi cả cuộc đời của em. Trong tác phẩm, Vịnh hiện lên như một vì sao lặng lẽ giữa bầu trời chiến tranh đầy khốc liệt khiến người ta nhói lòng bởi sự hy sinh âm thâm và cao cả của em.  Mấy ai còn nhỏ như thế, đủ gan dạ trèo lên thành trì của địch, tự thiêu sống chính mình, trở thành ngọn đuốc cháy sáng rực rỡ giữa đêm đen, sáng cả một trời khói bụi mịt mù của bom đạn, giúp bộ đội ta xác định chính xác kho đạn của địch? Em còn nhỏ mà anh hùng biết bao. Từ một cậu bé làm nghề rèn với bác, bị thím ghẻ lạnh cho đến người lính trình sát anh dũng “hóa thân mình vào biển lửa”. Vào giây phút màn đêm bừng sáng chói lòa nhất, em vẫn đứng sừng sững hiên ngang trên đầu giặc để ngước nhìn đồng đội mình chiến đấu thật anh dũng, để nhìn quê hương một lần cuối cùng. Em ra đi trong ngọn lửa dữ dội, nhưng em cũng chính là ánh sáng rực rỡ nhất – ánh sáng của lòng quả cảm, của niềm tin bất diệt vào Tổ quốc thân yêu.

Mừng một lòng nhiệt thành với cách mạng nhưng chiến tranh đầy đau thương cướp đi người mẹ đáng quý của cậu bé ngây thơ Mừng và đẩy em vào con đường bế tắc nhất khi bị nghi ngờ là Việt gian bán nước để rồi em chẳng thể yên lòng khi ra đi. Em mở đầu cho “Tuổi thơ dữ dội” với khoảnh khắc bé nhỏ nhanh nhẹn, em đã lẻn sang bên kia cầu và lẻn vào hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn. Dù là người nhỏ bé, trông ốm yếu nhưng em đã lập được rất nhiều công trạng và được ví như “bản đồ sống” của chiến khu. Mừng nhanh nhẹn, hoạt bát, biết quan tâm đến người khác, và hơn hết em gia nhập Vệ Quốc Đoàn chỉ vì trong sân huấn luyện có cây tầm gửi chữa được bệnh hen suyễn cho mẹ. Em chỉ mong một ngày đất nước được độc lập, ai ai cũng vui vẻ hạnh phúc và em chữa được bệnh cho mẹ em. Và rồi, Mừng kết thúc cuốn tiểu thuyết bằng sự hi sinh và câu nói chữa lành nỗi oan bán nước đến tận khi trút hơi thở cuối cùng mới được xóa bỏ: “Anh đừng nghi em là Việt gian nữa, anh hí”. Câu nói mang dáng hình ngây dại mà trong sạch của cậu vang vọng trong tiếng bom rơi đạn lạc, trở thành một nốt trầm bi thương, da diết trong lòng độc giả, như một tiếng nấc nghẹn ngào không nói nổi thành lời.

“Đoàn Vệ Quốc quân một lần ra đi

Nào có mong chi đâu ngày trở về

Ra đi ra đi bảo tồn sông núi

Ra đi ra đi thà chết không lui.”

   Tuổi mười bốn của những thiếu niên sống trong thời khắc quên mình vì dân tộc. Tuổi mười bốn , các em cầm súng trong tay với “lời thề kháng chiến đến bạc đầu”. Các em ai cũng mang trong mình những mơ ước , khát khao cháy bỏng về một thời hòa bình ấm no, một mơ ước đẹp đẽ, giản dị mà thấm đẫm bao nước mắt đau thương. “Đánh đuổi tụi Tây cướp nước rồi thì ai ai cũng được súng sướng. Em cũng muốn theo tụi anh đánh Tây, để cho nước nhà được độc lập”. Nhưng mà em ơi, “em ngây thơ quá, trong sạch quá, em không hiểu cũng không tin, trong cuộc sống mà em đang sống vẫn tồn tại cái ác, cái xấu xa, phản trắc, lừa lọc…” mà có khi, chẳng lúc nào em tưởng đến. Thương các em làm sao cho hết, em ơi!

   Phùng Quán không chỉ viết về chiến tranh – ông viết về trái tim của những đứa trẻ bé nhỏ mà kiêu hãnh, về một tuổi thơ rựa lửa như những ngọn đuốc giữa màn đêm đen của dân tộc. Các em sống, chiến đấu không phải vì danh tiếng, mà chỉ vì một lý tưởng giản đơn mà mất cả trăm năm mới thành hiện thực đó là: giành lại độc lập cho dân tộc. Có những cái chết khiến người ta bật khóc không phải vì bi thương, mà vì quá đỗi cao cả.  Các em đã hy sinh, nhưng trái tim em mãi còn đập trong lòng những người trẻ hôm nay – như một lời nhắc: “Yêu nước không đợi đến khi ta lớn. Sống có lý tưởng không cần phải đợi một thời khắc đặc biệt. Hãy sống ngay bây giờ – và sống thật xứng đáng.”

   Cuốn sách này dạy tôi nhiều điều – về lòng dũng cảm, về tình bạn, về niềm tin và khát vọng. Nhưng trên hết, nó dạy tôi trân trọng những điều bình dị quanh mình: buổi sáng đến trường, bữa cơm đủ đầy, tiếng ve rộn ràng mỗi độ hè sang… Những điều ấy, tưởng như nhỏ bé, lại từng là giấc mơ xa vời với những “người lính nhỏ” năm xưa. Hãy đọc cuốn sách như đọc lại một phần lịch sử của tuổi thơ Việt Nam, hãy đọc để nhớ lại, để biết ơn, hãy đọc để thấy cảm phục và tự hào. Mỗi phút mỗi giây được sống trong hòa bình độc lập hôm nay, ta phải biết được rằng: Hòa bình không phải điều hiển nhiên – đó là món quà được đánh đổi bằng nước mắt, máu và cả những tuổi thơ mãi mãi không lớn. Vậy thì, bạn trẻ ơi, hãy sống sao cho xứng đáng. Hãy biết ơn và gìn giữ những điều tốt đẹp ta đang có. Hãy để mỗi ngày trôi qua là một minh chứng rằng: Tuổi trẻ hôm nay – không quên tuổi thơ dữ dội ngày xưa, không quên đi ngày tháng hào hùng của dân tộc. “Tuổi thơ dữ dội” không chỉ là một tác phẩm văn học – nó là ngọn lửa. Và tôi mong rằng, ngọn lửa ấy sẽ thắp lên trong mỗi bạn trẻ hôm nay một niềm tin:  Tuổi trẻ, nếu biết sống hết mình, sẽ không bao giờ là vô nghĩa.

Nguyễn Ngọc Khánh