Nhắc đến hôn nhân, các độc giả sẽ nghĩ đến điều gì? Chắc chắn sẽ là những hình ảnh thiêng liêng nhất của một đời người như lễ đường rực rỡ, pháo giấy tung bay, những lời chúc tụng vô tận cho đôi uyên ương đến từ hàng trăm, hàng nghìn quan khách… Và còn điều gì viên mãn hơn nữa nếu như cuộc hôn nhân ấy được kết tinh từ một tình yêu bỏng cháy, sau khi cặp đôi đã trải qua bao giông bão trên hành trình tìm hiểu. Để rồi, tất cả sự kiên nhẫn, thấu hiểu và trân trọng lẫn nhau cuối cùng cũng đơn hoa kết trái ngọt lành. Từ nền tảng ấy, một mái ấm được dựng xây thật vững vàng, nơi mỗi người tìm thấy niềm tin, động lực và hạnh phúc bền lâu.
Thế nhưng, sẽ ra sao nếu cũng là hôn nhân, cũng lễ đường, pháo nổ, quan khách chúc tụng… nhưng tình yêu lại khuất dạng? Với thi sĩ Nguyễn Bính, đó thật là nỗi đau không có hồi kết! Bởi vậy, vào những năm 1940, giữa những ngọt ngào và đằm thắm đã trở thành bất hủ của “Xóm cũ”, “Chân quê”…, bài “Cưới vợ” (tên khác là “Nàng đi lấy chồng”) lại điểm xuyết một nỗi chua xót rất riêng mà cũng rất chung của hôn nhân sắp đặt không tình yêu nửa đầu thế kỷ XX.
Bài là lời tự sự của một chàng trai lỡ duyên với người mình yêu. Trong đau khổ, anh đành lòng phải vá víu bằng một cuộc hôn nhân ở quê. Vá víu là bởi:
“Vợ tôi không đợi, không chờ,
Không nhan sắc mấy, không thơ mộng gì.
Lấy tôi bởi đã đến thì,
Lấy tôi không phải là vì yêu tôi.”
Người ấy đến với anh đâu phải vì có sự quen biết, tìm hiểu gì nhau lúc trước đâu? Toàn là do quan viên hai họ sang nói chuyện nhỏ to. Để rồi từ trên trời rơi xuống một chàng rể, nàng dâu mà mình có khi còn chưa nghe đến tên! Đến khi bản thân lo ngại thì lại nghe các cụ đằng hắng kiểu “Ôi giời! trước lạ sau quen ý mà! Lo gì!”. Ôi cái motif chung của những cuộc hôn nhân sắp đặt không có tình yêu!
Hiển nhiên, trong cái vòng xoáy đau khổ ấy, cô dâu đến với chàng trai đâu có vì yêu đương, đợi chờ gì đâu? Người ấy đến chỉ vì những nỗi sợ chung của phụ nữ thời ấy (và đến bây giờ vẫn vậy): Sợ quá lứa lỡ thì! Sợ ế! Sợ khi về già “hại thay thác xuống làm ma không chồng”!Đau lại càng thêm đau khi chàng trai – thi sĩ Nguyễn Bính – không ngần ngại độp toẹt luôn là cô dâu “Không nhan sắc mấy, không thơ mộng gì.”. Chao ôi! Đây có khác nào một “bản án chung thân mãn đời” đối với một tâm hồn nghệ sĩ? Vướng vào hôn nhân kiểu này có khác nào một sự đoạn tuyệt với tình yêu đích thực và chân lý về cái đẹp mà mình vẫn hoài theo đuổi?
Để rồi, như một cơn gằn giọng trong góc tối, với chai cồn cay nồng và những giọt nước mắt chua cay của ba tấn bi kịch lớn nhất quanh chữ tình: Không lấy được người mình yêu, bị ép cưới và cưới phải người không hợp với mình về mọi mặt, bốn câu cuối cùng của bài đã được thốt lên. Bốn câu, câu từ thì có vẻ buồn cười, nhưng từng một thời là tuyên ngôn trong thế kỷ XX khi nói về sự ngao ngán của hôn nhân không toại nguyện:
“Hôm nay tôi cưới vợ rồi
Từ nay tôi đã là người bỏ đi
Pháo ơi! Mày nổ làm gì!
Biến ra tất cả pháo xì cho ta!”
…
Bài thơ “Cưới vợ”, cùng cả tập thơ ‘Tâm hồn tôi” khi ra đời dù đã giúp cho Nguyễn Bính vụt sáng như một trong những ngôi sao lớn của thơ Mới. Nhưng đổi lại, có vẻ như “Cưới vợ” đã “vô tình” xúc phạm thế lực tối cao nhất trong hôn nhân của Á Đông. Có thể, bằng một cách nào đó, Ông Tơ Bà Nguyệt đã thưởng lãm được bài, bực bội khi có kẻ dám trách cứ những quyết định của mình…
Để rồi, có ai ngờ đâu, “Cưới vợ” như đã tiên đoán trước chuyện hôn nhân của ông với đầy những trắc trở và tiếc nuối…
Tổng cộng, Nguyễn Bính có 4 đời vợ, 4 người con. Cái kết của tất cả các cuộc hôn nhân đều là sự chia lìa và khổ đau!
Đầu tiên vào năm 1951, ông nên duyên với nữ cán bộ cách mạng Nguyễn Hồng Châu. Nguyền người đồn rằng ông lấy bà cũng chỉ vì cả nể cấp trên và các đồng đội đã nỗ lực mai mối. Cuộc hôn nhân thứ hai là với bà Mai Thị Mới ở U Minh, Cà Mau khi ông vào Nam công tác. Nhưng mái ấm nhỏ nhanh chóng tan vỡ vì sự chia cắt hai miền vào năm 1954. Quá cô đơn, năm 1956, nhà thơ lại tìm cách vun vén mái ấm mới với nữ thư kí báo Trăm Hoa Phạm Vân Thanh. Nhưng đến năm 1957, không rõ vì lí do gì, bà Thanh gửi lại đứa con chung Nguyễn Hiền cho ông để đi tìm hạnh phúc mới. Càng đau đớn hơn khi về sau, trong một phút bất cẩn, ông đã để lạc mất bé Hiền, cho đến tận bây giờ vẫn chưa tìm thấy! Cay đắng ngập tràn, ông quyết định về quê, lập gia đình với bà Trần Thị Lai. Thế nhưng, như tận cùng nghiệt ngã, đúng lúc bà Lai đang ở cữ sinh hạ người con trai Nguyễn Mạnh Hùng, ông đột ngột mắc bạo bệnh rồi qua đời vào ngày 29 tết Bính Ngọ (1966), hưởng dương 48 tuổi.
Chính bởi hôn nhân lắm gian truân và bi kịch như vậy, nên về sau này, các con của ông thay vì hận cha vì đã bỏ rơi mình thì lại chuyển sang thương. Bà Nguyễn Bính Hồng Cầu, người con giữa ông với vợ đầu Nguyễn Hồng Châu, sau này tâm sự trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2021:
“Hồi xưa tôi giận ba tôi lắm. Nhưng lớn lên tìm hiểu, tôi mới vỡ lẽ. Đời ba tôi nhiều bất hạnh. Ông cứ đi tìm cái bóng của hạnh phúc cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vào đêm giao thừa năm 1966”.
– 30/9/2025 –
#ngotienvinh
THAM KHẢO:
https://kienthuc.net.vn/cuoc-doi-bat-hanh-va-4-doi-vo-cua-thi-si-nguyen-binh-post737147.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_B%C3%ADnh
https://vanvn.vn/nguyen-binh-nha-tho-cua-nhieu-thoi-tieu-luan-bui-manh-nhi/