“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
   Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
   Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
   Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

   Trên bờ sông Như Nguyệt năm nào, trong ánh lửa leo lét, quân lính ngẩng mặt nghe tiếng ngâm hùng hồn. Ngắn ngủi chỉ bốn câu, nhưng qua bao năm tháng, vẫn còn vang vọng mãi. Lạ thay, lời lẽ đó lại được viết bằng chữ của kẻ thù bấy giờ. Cái chữ Hán đã trói buộc, in dấu trên những bản chiếu chỉ bắt phu, trên lệnh thu thuế, trên án chém giết… Ấy vậy mà, khi cất lên trong bóng tối, nó bỗng hóa thành tuyên ngôn độc lập của chính những người bị trị. Như lấy chính thanh gươm kẻ thù rồi quay mũi chỉa ngược lại chúng. Từ chỗ vay mượn mà ta thành tự chủ.

   Lịch sử từng đặt dân tộc này trước nghịch cảnh phải dùng ngôn ngữ ngoại lai. Khi ấy ta đâu có quyền được chọn, chỉ đành viết bằng chữ của người khác. Nhưng cũng chính từ chỗ bị ép phải vay mượn đó, cha ông ta lại biết cách xoay chuyển tình thế, biến chữ Hán thành công cụ để phản kháng, khẳng định chính mình.

   Khi ánh lửa Như Nguyệt sắp tắt, lịch sử sang trang mới. Nguyễn Trãi xuất hiện, để ngọn lửa ấy một lần nữa bùng cháy dữ dội. Bình Ngô Đại Cáo ra đời, trang trọng như một lời tuyên bố ngang hàng với thiên hạ. Vẫn là chữ Hán, nhưng tinh thần thì đã là tiếng Việt: khẳng định Đại Việt là một nước có lãnh thổ, phong tục và có lịch sử dài lâu chống ngoại xâm. Hùng tráng nhưng cũng đầy hơi thở nhân dân.

   Và không dừng ở đó. Sau khi dựng nên bản cáo trạng hùng hồn bằng chữ Hán, Nguyễn Trãi lại quay về tiếng Việt thuần túy trong Quốc Âm Thi Tập. Những vần thơ dân dã, mang mùi khói bếp, tiếng gà gáy, cùng những lời than thở và nỗi buồn nhân thế. Lần đầu tiên, thứ tiếng vẫn chỉ tồn tại trong lời ru, trong câu hát, được đưa vào văn chương chính thống bấy giờ. Đó là cột mốc từ bóng chữ ngoại lai, tiếng Việt đã bắt đầu cất giọng riêng.

   Nghìn năm vay mượn ấy đã để lại những khoảng trống không bao giờ đầy. Trước khi chữ Hán đến, người Việt cũng hẳn đã có lối ghi dấu riêng của mình. Những vạch khắc trên đá, những hình chim, hình thuyền trên trống đồng… biết đâu từng là ký hiệu, một thứ chữ sơ khai. Giờ thì mất rồi, chỉ còn để ta đoán bằng trực giác. Một tầng ký ức đã bị vùi lấp. Và rồi xã hội phong kiến sinh ra hai dòng chảy: giới sĩ phu cắm mặt vào kinh sử chữ Hán để ra làm quan, trong khi dân gian giữ tiếng Việt trong câu ca, lời ru, truyện kể. Một bên theo lề thói cung đình, một bên quanh quẩn làng quê. Sự chông chênh ấy kéo dài qua nhiều thế kỷ.

   Hôm nay, nghĩ lại, thì thấy chuyện xưa cũng chẳng mấy xa lạ. Thế hệ trẻ học ngoại ngữ, viết văn, làm thơ bằng tiếng nước ngoài – một dạng “chữ Hán mới”. Khác biệt duy nhất là xưa vay mượn do bị áp đặt, nay là lựa chọn để hòa nhập với những nền văn hóa khác trên thế giới. Nhưng mượn để làm gì, giữ được gì, đánh mất bao nhiêu? Những câu hỏi đó chưa bao giờ dễ trả lời.

   Thực trạng bây giờ có nhiều tác giả trẻ say mê văn chương phương Tây, thích viết như Márquez. Có người lại say mê Murakami, viết chuyện mưa rơi trên quán cà phê Tokyo. Lại có người làm những vần lục bát nhưng khoác cho nó lớp áo tuyết rơi; những hình ảnh xa lạ với ruộng đồng, xứ sở, con người Việt. Điều đó không đến mức bị lên án gay gắt. Vì bản chất văn chương vốn cũng cần sự giao thoa. Chỉ e rằng nếu tất cả chỉ là bắt chước, mô phỏng một cách máy móc, không còn hơi thở riêng, thì bản sắc liệu giữ được không? Vì văn chương, suy cho cùng không chỉ để giải trí mà còn là nơi ký thác linh hồn và tiếng vọng lịch sử của con người.

   Hình ảnh Nguyễn Trãi và dân tộc ta từng đứng giữa chữ Hán, mà không bị đồng hóa thành cái bóng. Đã đặt ra thách thức cho thế hệ trẻ, làm sao giữ được bản sắc mà không đồng nghĩa với việc khép cửa? Giữ bản sắc thế nào để dùng chữ của thiên hạ, nhưng lại nói được cái nét riêng của dân tộc? Như “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Câu ấy không thấy trong sách Nho nào, mà chỉ sinh ra từ đất nước này, từ một dân tộc từng chịu nhiều đau khổ.

   Trong những lúc đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn ấy, ta có thể lật lại những trang sách: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, những công trình như Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam của Trần Đình Hượu, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đào Duy Anh. Đọc để biết sự thật, và để nghe tiếng vọng từ lịch sử. Biết dân tộc này từng đứng trong ngôn ngữ người khác, nhưng vẫn kiên trì giữ lấy giọng nói của mình. Hôm nay, giữa làn sóng ngoại ngữ, bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị. Nếu còn giữ được hồn chữ, giữ được giọng riêng, thì dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tiếng Việt vẫn có thể cất lên. Và tôi tin, không một ngôn ngữ nào có thể làm nó im lặng.

Thanh Ngân