Dù rằng thế gian từ thời vua Lê – chúa Trịnh đến nay đã sinh sôi không biết bao nhiêu giai thoại về nhân vật Trạng Quỳnh. Đi cùng với đó là hàng tá những tranh cãi rằng ngoài để lại tiếng cười ra, thì có nên dùng các tích truyện của Trạng trong hoạt động giáo dục hay không? Giáo dục được những gì? Liệu có dạy được bài học gì quý báu? Hay chỉ toàn dạy những chiêu trò ranh ma giữa giới quan trường, giới tinh hoa?… Thế nhưng đến nay, chỉ riêng một câu hỏi hết sức đơn giản này thôi, nhân dân ta suốt bao đời nay cũng đã chưa có lời giải thỏa đáng rồi:

“Rốt cục, Trạng Quỳnh có thật hay không?”

Hiện, theo giả thuyết đang được nhiều đồng thuận nhất đến từ nhà sử học Hà Văn Tấn, “khởi hình lịch sử” của nhân vật Trạng Quỳnh xuất phát từ một nhà Nho hoàn toàn có thật trong lịch sử. Đó là Hương cống Nguyễn Quỳnh (1677-1748), người của đất học Bột Thượng – Cổ Quăng (còn có tên khác là Kẻ Quăng), phủ Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Lộc, tỉnh Thanh Hoá). Sở dĩ người ta cho rằng cụ chính là Trạng Quỳnh là bởi lẽ, dù chỉ là Hương Cống, nhưng tài văn thơ chữ Nôm, khả năng đàm luận, tính khí hài hước của cụ từng khiến người đương thời tôn cụ làm Trạng. Sách “Đăng khoa lục sưu giảng” của Tiến sĩ Trần Tiến có ghi câu đối ca ngợi:

“Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ hữu nhị

Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam”.

Nghĩa là:

“Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ chỉ có hai người.

Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ không có đến người thứ ba.”

Và giống y chang Trạng Quỳnh trong dân gian, bản thân cụ cũng để lại những giai thoại hay, hài hước và cực thâm cay. Dưới đây được cho là một giai thoại có thật về cụ, được Lãng Nhân viết lại trong cuốn “Giai thoại Làng Nho” từng một thời gây sốt miền Nam những năm 60 của thế kỷ trước.

Tương truyền, cụ vốn bẩm sinh rất giỏi giang, lại được ông nội và cha, vốn là giám sinh ở Quốc Tử giám, kèm cặp. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. Chỉ trong một năm đã học thuộc cả ba bộ kinh Dịch, Lễ và Thư. Năm 19 tuổi, cụ thi Hương đỗ đầu bảng Hương Cống. Nhưng kỳ lạ là đi thi Hội lại nhiều lần bị hỏng. Tương truyền rằng, cụ thi hỏng thực ra không phải là vì kém, mà là vì… cố tình thi hỏng để trêu tức các quan chủ khảo và chúa Trịnh!

Một năm nọ, nhà chúa (được cho là đời chúa Trịnh Cương) mừng sinh nhật con trai, các quan trường bèn nảy ra ý định nịnh hót chúa, bàn nhau đợt đó ra phần bài câu đối kì thi Hội có chủ đề nói về điềm lành của đất nước. Tưởng gì chứ! Đang không ưa nhà chúa, cụ Quỳnh liền bày trò “thâm Nho” trong câu đối luôn! Mấy trò làm hài kiểu này này là nghề của cụ rồi:

“Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân

Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lại Đường Ngu chi đức”

Theo nghĩa Hán – Việt thì rõ ràng câu có ý nghĩa rất hay:

“Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được sống đời Nghiêu Thuấn

Trên cũng vui vậy thay, dưới cũng vui vậy thay, dựa vào đám đầu lại có đức độ thời Đường Ngu.”

Nhưng đọc theo nghĩa Nôm thì… thôi mọi người tự suy luận đi, mình không dám viết thẳng ra. Kẻo bài… bốc mùi lên mất!

Quả thật! Ngay khi mới đọc, chúa Trịnh và một số quan chủ khảo cũng bị lừa, khen bài hay nức nở. Chỉ tới khi bình tĩnh lại thì mới phát hiện ra pha xéo xắt đỉnh cao của cụ khi hiểu theo nghĩa Nôm. Cay cú mà không thể bỏ tù được vì chơi chữ quá khéo, các quan chủ khảo chỉ còn cách đánh trượt!

Thôi! Thế là ông Cống vẫn hoàn ông Cống! Cơ mà cụ cần gì đỗ đạt! Thi để xéo xắt cho vui thôi mà!

Nhưng rồi vì cái đường công danh, cụ rồi cũng đã phải thi nghiêm túc. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm.

***

Còn quay trở về với câu hỏi lai lịch của Trạng Quỳnh. Sở dĩ nhà sử học Hà Văn Tấn chỉ dùng thuật ngữ “khởi hình lịch sử” là bởi trong quá trình nguyên cứu chéo giữa các tích chuyện của Trạng và cuộc đời cụ Nguyễn Quỳnh, ông cùng nhiều nhà sử học, nhà văn, nhà thơ khác đã thấy không ít điểm không đồng nhất giữa tích truyện dân gian với hành trạng và tính khí của cụ.

Đơn cử như những giai thoại đối thơ giữa Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm. Bởi vì cụ Nguyễn Quỳnh sinh năm 1677 và mất năm 1748. Còn Đoàn Thị Điểm sinh năm 1705 và cũng mất năm 1748. Như vậy, năm Cống Quỳnh 28 tuổi, làm giáo thụ ở huyện Thạch Thất, nữ sĩ mới sinh. Lại thêm chênh lệch về gia thế và chức vụ nữa. Vậy nên, rất khó có khả năng hai người gặp gỡ và thi thố với nhau theo kiểu như trai gái còn tân được!

Hay như tích truyện “Trạng c.h.ế.t, chúa cũng băng hà/Dưa gang đỏ đ.í.t thì cà đỏ t.r.ô.n” cho rằng Trạng Quỳnh qua đời vì bị chúa đầu độc, nhưng vẫn nghĩ ra mẹo để kéo chúa đi theo mình. Trong khi đó, gia phả lại ghi rằng cụ Nguyễn Quỳnh rời cõi tạm một cách yên bình vào ngày 28/1 âm lịch năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (tức ngày 26/2/1748), thọ 71 tuổi.

Tuy vậy, thông qua một số lượng nhất định các chi tiết đồng nhất về tính cách, các mốc thời gian, những nơi từng đến và sinh sống, nhà sử học Hà Văn Tấn cùng hậu duệ họ Nguyễn ở Bột Thượng vẫn cho rằng có một mối liên hệ nhất định giữa hai nhân vật có thật – truyền thuyết dân gian kể trên. Và không gì có thể phủ nhận được rằng cả hai vẫn là những niềm tự hào của các thế hệ hậu bối chúng ta ngày hôm nay, như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói:

“Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra những nhân vật như Hồ Xuân Hương, như Trạng Quỳnh còn sống được đến bây giờ, tức là sẽ còn sống mãi thứ văn học mà già, trẻ, cao, thấp, Nam, Bắc đọc đều thấy thú vị!”.

 Ngô Tiến Vinh