Quả thật, tôi không biết một tí chút gì về cây bút Đông Di. Qua một người bạn đồng nghiệp ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II mà tôi có cơ duyên được đọc tập tản văn Hồ Xuân Hương và Tôi.
Một vài trao đổi ngắn gọn với bạn đồng nghiệp không soi sáng chút nào cho tôi trong cách định danh thể loại tản văn Hồ Xuân Hương và Tôi như những hợp thể của bút pháp hư cấu (Fiction) cùng phi hư cấu (Non-fiction) và hình thức lưỡng phân, giao thoa, bán phần hư cấu (Semi-fiction) giữa các thể dụng “những ghi chép du hành” với du khảo về đất nước Nepal, giữa sự lạc bước không gian “những miền đất xa lạ” với ngược chiều thời gian suy tưởng “tìm kiếm những giá trị cổ xưa”, giữa những tương đồng trải nghiệm tinh thần “sức sống từ thơ ca Hồ Xuân Hương” với năng lượng khai phóng “tiếng nói đầy sức sống”, “mở ra một con đường” và “câu chuyện của niềm tin”…
Đọc Hồ Xuân Hương và Tôi, trước hết tôi được dẫn dụ bởi diễn ngôn du ký và lời kể sự thật với những người thật, việc thật, thời gian, địa điểm, sự kiện thật, cảnh quan thật và những đối thoại như thật: “Tôi rủ Mỹ Lai tới Nepal”, “Từ Hà Nội không có chuyến bay thẳng tới Nepal nên chúng tôi phải ngủ lại một đêm ở Bangkok…”, “Sư cô vốn là người Hà Nội, trước đây là giảng viên tại một trường đại học kỹ thuật lớn ở Việt Nam”, “Ngày mai sư cô cũng sẽ bay chuyến bay sớm tới Sri Lanka”, “Em nghĩ xem, còn có ai có thể làm thơ hay như vậy, thâm thúy đến vậy ngoài Nữ thần của chị. Đây chính là bài Vịnh ni sư. Em đọc thử đi. Tuyển tập thơ Nôm của tác giả Kiều Thu Hoạch này hay lắm. Chị thấy đây là bản hay nhất trong số các bản phiên âm thơ của Nữ thần”… Khó mà nghi ngờ tập tản văn Hồ Xuân Hương và Tôi với đầy đủ các đặc điểm chuyến du ngoạn thiên về vị nghệ thuật, lấy trải nghiệm Đi và Xem làm mục đích, lại không phải là du ký?…
Có thể thấy “mặt nạ du ký” tản văn Hồ Xuân Hương và Tôi khéo được che phủ, lồng ghép nhuần nhuyễn bởi diễn ngôn chủ thể tác giả luôn mở theo thời gian tuyến tính và theo không gian bước chân du ngoạn, du hành, du lịch. Hành trình chuyến đi làm nên cấu trúc tác phẩm gắn với những cung đường, những địa danh lịch sử, những thắng cảnh, những điểm di tích tâm linh, những chùa chiền, đền, miếu (Đường tới Nepal – Lumbini – Katmandu – Bà la môn – Bí mật gia tộc – Tây Độc – Từ Mật tông đến Thánh chiến). Đặc tính “mặt nạ du ký”, “giả du ký” của tản văn Hồ Xuân Hương và Tôi mê hoặc người đọc bởi những chi tiết “như thật” và “thật như thật”, chân thực, gợi cảm: “Ngồi đợi chờ, vạ vật vài tiếng đồng hồ ở sân bay nhất định không phải là một trải nghiệm dễ chịu…”, “Hai chúng tôi lại chia nhau mang vác hành lý đi vào trong khách sạn”, “Khi bước chân vào khu vực thánh địa, tôi vừa ngỡ ngàng vừa nhiều cảm xúc”, “Buổi chiều ở Lumbini, mặt trời dường như buông xuống cũng nhanh hơn”, “Tôi và Mỹ Lai tới khách sạn ở Katmandu vào buổi trưa”, “Ngày cuối cùng chúng tôi ở Katmandu, theo lịch trình Ram sẽ đưa chúng tôi đi thăm chùa Swayambhunath”, “Chúng tôi rời Katmandu vào buổi sáng”, “Tôi nhớ lại tất cả những chuyện này là bởi vì tôi đang đứng trước một bức tượng Phật phối ngẫu được đặt chính giữa tại một căn phòng rất đẹp, tràn ngập ánh nắng trong một thiền viện Mật tông”… Bên cạnh hai nhân vật chính chủ thể Tôi (Đông Di) và Mỹ Lai, từ khi xuất hiện thêm vai phụ sư cô nghiên cứu sinh, người phụ nữ “giáo thọ của tăng đoàn Làng Mai”, hướng dẫn viên du lịch tên Ram, hành giả Tây Độc người Pháp, Trần Jacque – Ả Trần gốc Việt xinh trai và sư phụ Rinpoche thì các chủ điểm nhân tính, tình yêu, triết học, mỹ học, tâm linh, tôn giáo, Phật giáo ngày càng được nâng cao, khai thác sâu rộng hơn. Các nhân vật ở đây hầu hết thuộc tầng lớp trí thức “nhà có điều kiện” và các tu sĩ thiên về tìm đường cứu rỗi tinh thần (khác biệt với kiểu nhân vật bần cố vốn chỉ lo về cái bụng) nên có thể nâng tầm suy tư, suy tưởng và tranh luận các vấn đề cõi người và cõi trời, thực tại và vĩnh hằng, giải thoát và siêu thoát. Điều này tiếp tục được gia tăng, tô đậm trong các đề mục tiếp theo (Ả Trần – Công chúa của vương triều nhà Lê – Thăng Long thuở ấy – Cổ Nguyệt đường – Cố nhân) và đặc biệt gắn với những cảm nhận, sự tiếp nhận, luận bình, phán quyết về Thánh nữ – Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng như phẩm chất hiện sinh Hồ Xuân Hương tiềm ẩn và hiện diện trong mỗi con người…
Có thể thấy rõ dòng thời gian trong Hồ Xuân Hương và Tôi vận hành theo tuyến tính chuyến du hành thì không gian ở đây hoàn toàn thuộc về thế giới tâm linh, cho dù luôn thay đổi từ đất nước này sang nước khác, từ miền này sang vùng khác, từ thành này sang núi khác, từ khách sạn này tới tòa tháp khác, từ chùa này sang chùa khác, từ đền này sang đền khác và từ thánh địa này sang thánh địa khác. Trong thực chất, ám ảnh nghệ thuật ở đây không phải là chủ thể Tôi đi kiếm tìm bản thể Tôi mà chính là Hồ Xuân Hương đã đóng vai trò tiền đề, căn số, căn cước, quy định, quy ước, dẫn dắt, mở đường, soi đường, định hướng cho Tôi “và Tôi” giữa những mơ hồ, khát khao, chập chờn, bất định. Một chi tiết, sự kiện, hiện tượng giữ vai trò gài nút thật và không thể thật hơn: “Biết tôi yêu thích thơ Hồ Xuân Hương, một người bạn đã tặng cuốn Thơ Nôm Hồ Xuân Hương của tác giả Kiều Thu Hoạch và gửi về cho tôi đúng lúc tôi đang sắp xếp hành lý để lên đường đi Nepal”. Từ đây, tập thơ, chất thơ và Thánh nữ thơ Hồ Xuân Hương trở thành cái chốt quạt cho mười sáu nan trữ tình hiện sinh mở bung ra trong những hồi ức, suy tư, khát khao, ước vọng với nỗi nhớ tình xưa, những đối thoại xa gần, những đổ vỡ chia ly và gặp gỡ tái hồi, những tâm tư phản kháng và quy phục, những độc thoại chính luận và trữ tình… Người đọc làm quen dần từ nhan đề tập thơ, việc cảm nhận một vài câu thơ và dẫn cả bài thơ Vịnh ni sư, càng về cuối thì câu chuyện về thơ và tình thơ Hồ Xuân Hương càng đậm đặc hơn, say đắm hơn. Sự phổ biến, phổ cập và nhân tính hóa thơ Hồ Xuân Hương được nâng cấp ở việc dẫn nguyên văn bản dịch tiếng Pháp bài thơ Vịnh cái quạt và tiếng Anh bài Vấn nguyệt – Hỏi trăng, trở thành tâm điểm, thử thách và thước đo nhận thức, tri thức, tình yêu, tình người, phẩm giá với hầu hết các nhân vật.…
Có thể là một sự ngẫu nhiên của thi pháp “Họa long điểm nhãn” khi mà chính Pierre de G. Tây Độc đã từng mua tập thơ Hồ Xuân Hương do học giả người Pháp Maurice Durand dịch để tặng cho Đông Di. Nối tiếp là đoạn đối thoại giữa Tây Độc cùng Mỹ Lai mà chính Tôi – Đông Di đã thoáng nghe được và bày tỏ thái độ:
“- Vậy sao? Thế anh có đọc những bài thơ này của Nữ thần của Đông Di không?
– Có chứ. Nhưng không nhớ nhiều. Tuy nhiên, anh vẫn nhớ câu bình luận của ông Maurice Durand.
– Ông ta bình luận thế nào?
– Ông ấy nói nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một người đàn bà phóng đãng, bị ám ảnh bởi ham muốn dâm dục và điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm của bà.
Tôi nghe Tây Độc nói như vậy thì không thể giữ được bình tĩnh nữa, cũng không thể ngồi yên thư giãn được nữa. Nỗi đau đớn, cùng với sự tức giận tột cùng như một ngọn lửa thổi bùng lên trong tâm khảm, đã biến đổi tôi trong phút giây ngắn ngủi thành một con người hoàn toàn khác. Tôi không còn là một người hòa nhã nữa mà đã trở thành người đang trong cơn giận dữ đến không thể kiềm chế. Tôi đi rất nhanh tới khu đảo bếp và hét vào mặt Tây Độc:
– Cái lão Maurice Durand kia mới là phóng đãng, dâm dục. Cả đám nhà các anh mới là phóng đãng, dâm dục. Các anh đã dùng tâm hồn dung tục để đọc thơ của Nữ thần của tôi, thật làm ô uế những vần thơ. Anh biết không, tôi đã ước rằng, giá như lũ các anh mù chữ, vậy thì chẳng bao giờ có thể đọc được đến thơ của bà mà đem ra phê bình hay bình luận.
Tôi nói xong những câu này, mà trong lòng như muốn khóc. Tại sao cái đám Tây, Tàu này, rồi cả đám học giả ta nữa lúc nào cũng nói thơ của Nữ thần là dâm dục? Họ thấy như thế thật sao? Tại sao tôi lại không thấy như vậy? Tôi chỉ thấy mỗi bài thơ của bà hiện ra giống như một bức tranh vậy, và mỗi bức tranh là sự phản ánh một khía cạnh của hiện thực trong đời sống nơi trần gian. Xin hỏi rằng từ xưa đến nay đã có văn sĩ nào làm được như vậy chưa?
Đẳng cấp của bà phải là đẳng cấp của một đại thi hào.
Nữ thần của tôi chỉ vì yêu thương con người, cảm thông với thân phận nổi trôi của muôn kiếp nhân sinh mà làm thơ. Bà đã đem tài năng của mình để phục vụ nhân dân mà không cần phải suy nghĩ hay băn khoăn để xem xét; nghệ thuật nên vì nghệ thuật hay nghệ thuật nên vì nhân sinh”…
Thực ra, sau những dẫn giải bất chợt, thoáng qua về các nhà Hán học Maurice Durand (1914-1966) và Kiều Thu Hoạch (sinh 1934) cùng khảo cứu văn bản thơ Hồ Xuân Hương, những gợi nhớ về công trình của Thích Nhất Hạnh (1926-2022), những trích dẫn thơ Hồ DZếnh (1919-1991), những câu chuyện “mẹ tôi” kể về các ngôi chùa, về gia tộc thời Lê, về hoàng đế Ung Chính, về Mật tông, về Lạt Ma và mở rộng tới game show “Ai là triệu phú” giúp người đọc như “tỉnh” lại trước chuyện tình giả định ám ảnh ma mị phiêu lãng giăng gió một thời Thăng Long ở hai mục cuối Cổ Nguyệt đường và Cố nhân, có phần hoang hoải tựa như Chút thoáng Xuân Hương của Nguyễn Huy Thiệp…
Khép lại “Thập nhị nhân duyên” 12 tiểu mục tản văn ẩn dụ tiểu thuyết du ký Hồ Xuân Hương và Tôi là phần Phụ lục với việc chọn lọc ảnh ấn và phiên âm 37 bài thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương. Đến với miền đất tâm linh, thơ Hồ Xuân Hương cũng được thử thách, lựa chọn, xét tuyển, tinh tuyển, chuyển hóa nhiều hơn ở miền nhân tính tâm linh, đồng dạng cùng những truyền thuyết thánh Chử Đồng Tử (thế kỷ III – IV trước CN), hay là Ruồi Trâu của Ethel Lilian Voynich (1864-1960), hay là Tiếng chim hót trong bụi mận gai của Colleen McCullough (1937-2015), hay là Niết bàn bốc cháy của Ðoàn Lê (1943-2017)… Cần nói thêm, tất cả họ đều là phụ nữ…
Hà Nội, 23-01-2025
Nhà báo, nhà phê bình văn học Nguyễn Hữu Sơn