“Người đua diều” kể về Amir, một cậu bé ở Kabul (Afghanistan) lớn lên cùng người cha Baba và bạn thân kiêm người hầu Hassan – con của ông Ali, thuộc dân tộc Hazara bị khinh miệt. Hassan luôn trung thành và bảo vệ Amir, nhưng trong một lần đua diều, Amir đã chứng kiến Hassan bị Assef làm nhục mà không dám can thiệp. Sau đó, vì mặc cảm và ghen tị, Amir tìm cách đẩy Hassan và ông Ali rời đi.

Chiến tranh buộc Amir và Baba sang Mỹ. Tại đây, Amir kết hôn với Soraya, con của ngài Đại tướng và Jamila jan, một cựu nghệ sĩ với giọng hát tuyệt vời, không lâu Baba qua đời. Nhiều năm sau, Rahim Khan – bạn thân của Baba – tiết lộ sự thật rằng Hassan là anh em cùng cha khác mẹ với Amir, và đã bị Taliban giết cùng vợ. Hassan để lại con trai Sohrab. Amir quay lại Afghanistan, giải cứu Sohrab khỏi tay Assef và định đưa cậu sang Mỹ. Sohrab từng tự sát hụt và không nói chuyện suốt một năm, cho đến khi một lần nữa cậu bé cười mỉm khi cùng Amir thả diều ở cuối sách, gợi lại hình ảnh ba cậu bé là Hassan năm xưa.

Khaled Hosseini vẫn vậy – từng trang viết của ông vẽ nên một bức tranh phủ bụi, loang máu, mồ hôi và nước mắt, nhưng sau tất cả vẫn là ánh mặt trời của niềm tin và hy vọng. Người đua diều là bức tranh về Afghanistan hơn 30 năm trước, về danh dự, tình yêu, những lối thoát và cả giấc mơ Mỹ – một giấc mơ không phải ai cũng khao khát.

Nửa đầu cuốn sách nhuốm màu tiếc nuối, là những day dứt của Amir — vừa muốn trốn chạy, vừa khát khao trở lại tuổi thơ ở Kabul. Ở đó có Hassan cùng cậu chạy trên những triền đồi, có lòng trung tín tuyệt đối, có Baba uy nghi trên sân thượng dõi theo lần đầu cậu hạ gục mọi con diều khác, có chú Rahim Khan mà Amir luôn nói rằng bằng một cách nào đó, chú luôn biết, có ông Ali cà nhắc nhưng tận tụy lo cho ngôi nhà lâu cả trước khi Hassan ra đời.

Amir và Hassan bú chung một bà vú. Phải chăng đó là mối liên kết của họ được tác giả bày tỏ ngay từ ban đầu? Tiếng nói đầu tiên của Amir là “Baba”, của Hassan là “Amir”. Rồi phải chăng đây cũng là cái niềm khao khát của hai đứa trẻ trở về sau?
Amir luôn mong mỏi được ánh mắt của Baba rọi đến. Ông có lẽ là ánh sáng tuổi thơ mà cậu bé luôn mong mỏi có được, một sự công nhận vô hình để có lẽ nào khẳng định vị thế của Amir. Hassan, một cậu bé Hazara, một người ở của nhà Amir, lại có vẻ như có hết những phẩm chất mà Baba mong muốn ở cậu. Ông có vẻ tiếc rẻ mỗi một lời khen ông dành cho Amir, nhưng lại thoải mái vỗ vai Hassan khi thằng bé vượt trội hơn ở điều gì đó, mà hầu như là vậy. Ánh mắt Baba dành cho Hassan là thứ mà Amir mong cầu. Chính sự lãnh đạm đáng tiếc, mà về sau ta được biết là nỗi dằn vặt Baba đặt trên hai người con trai mình, đã tạo nên một Amir với thời thơ ấu kết thúc bằng tiếc nuối và mối liên kết gần như rời rạc giữa hai cha con. Amir lợi dụng những điều Hassan không biết để đảm bảo cái vị thế “chiếu trên” của mình. Hassan không biết chữ, Amir sẽ thêu dệt nên câu chuyện khác, sẽ chẳng chơi chung với cậu bé người ở khi có người khác ở gần. Hassan là một niềm ước ao, cũng là một mảnh Amir muốn che giấu. Bởi một khi Hassan có được ánh sáng, chẳng ai có thể đảm bảo bóng tối có bao trùm lấy Amir hay không, không có gì hết.

Tôi thấy tiếc nuối, nhưng tôi cho rằng cũng chẳng thể oán trách hết lên Amir. Dù sao thì y cũng chỉ là một đứa trẻ, một đứa trẻ thiếu cảm giác an toàn và được tin tưởng, một tâm hồn nghệ sĩ nhưng được yêu cầu nổi trội về sức mạnh thể chất không phải thế mạnh, và điều đó dằn vặt cậu. Trớ trêu thay, khi Amir lần đầu tiên đón nhận được ánh mắt tán thưởng của Baba, cậu đã chọn giấu đi Hassan cùng những ngày tháng ấu thơ kia. Con diều xanh chiến lợi phẩm đang rơi xuống, và Hassan chạy đi kiếm nó cho Amir Agha của cậu, vẫn như bao lần. Màu xanh của hy vọng, dành cho ánh nhìn cảm mến hơn và được chăng nằm trong vòng tay Baba tâm sự đầy thân thiết của Amir, nhưng là nỗi tuyệt vọng bao trùm lấy Hassan. Amir đã nghĩ gì? Đau đớn, tủi nhục trong con hẻm trước bè lũ của bọn Assef? Cậu đã thầm thì gì khi trông thấy Amir, liệu là lối thoát hay là tuyệt vọng, hay thậm chí thấy mọi điều nên thế, Amir Agha nên bỏ cậu lại vì như thế chẳng đáng để mạo hiểm chút nào chăng? Chúng ta không biết, nhưng có thật sự quan trọng nữa hay không? Amir Agha, cho đến giây phút Hassan từ bỏ cõi đời, vẫn là Amir trong câu bập bẹ đầu tiên cậu bé thốt ra trong đời. Và những năm tháng bên Amir đáng quý biết bao nhiêu, để sau này Hassan kể lại điều đó với vợ con cùng niềm vui hoài niệm, để đến giây phút biết rằng sự dối trá Amir đầy lên cậu sự mù mịt và bất an, phải chăng cả thất vọng, Hassan vẫn chọn bảo vệ nó. Tình cảm của Hassan, cho đến cuối cùng, dường như bất diệt.

Được dạy dỗ để mãi giữ lấy danh dự và niềm tự hào, Amir dường như vẫn luôn chới với để đạt được nó. Y thậm chí không dám kể lại sự dối trá của bản thân nhiều năm về trước ngay cả khi đã đặt chân đến nước Mỹ xa xôi. Đó là quá khứ phản bội lại thứ danh dự và tự hào Baba đã luôn mong đợi ở y. Liệu iftikhar, lòng kiêu hãnh ấy, có đáng không để quá nhiều người đánh đổi thời gian, quá khứ, rồi mắc kẹt trong những dĩ vãng xa xưa? Lòng kiêu hãnh đã ghìm Baba lại trước con mắt của thiên hạ, đã, theo lời chú Rahim Khan nói, chia Baba thành hai nửa, với Amir là nửa được thừa nhận, và Hassan là nửa bị giấu giếm đi. Cũng chính lòng kiêu hãnh ấy, đã bao bọc ông Tướng Sahib trong quá khứ, mong mỏi một ngày kia một Afghanistan thịnh vượng sẽ đến đón ông về với địa vị và sự kính trọng. Thế nhưng liệu rằng lòng kiêu hãnh ấy có đáng không? Khi mà trên thực tế, giữ ông ở lại và không hề làm gì để nuôi sống gia đình cho đến ngày đất mẹ của ông thật sự trở lại. Lý tưởng đó thật đẹp làm sao, nhưng khi gặp bụi bặm thời thế, hoá ra nó lại che mờ đi lý trí của kẻ tôn sùng nó. Thực tại với lý tưởng phải chăng bao giờ cũng thế? Cái nhìn của thiên hạ, đôi khi nó không là gì, đôi khi nó lại là tất cả. Jamila jan theo chồng, bà bỏ đi niềm ham mê ca hát của mình, bà không cất giọng lên ngay cả trong đám cưới cô con gái thân yêu của mình. Bà hạnh phúc và luôn yêu thương chồng con da diết, nhưng liệu có ai yêu lấy ước mơ của bà chăng? Cũng vẫn cái ánh nhìn đó, Hassan cho đến cuối vẫn không được biết gốc gác của mình, thứ mà phần lớn chúng ta coi như là dĩ lẽ, liệu có đáng không? Baba nhìn từ bên ngoài, có lẽ ông đã có được cái nhìn ấy. Người ta tôn trọng ông vì lòng hiếu khách, thương người, sự dũng cảm vì anh em bạn bè. Nhưng cũng chính cái nhìn ấy, đã khiến ông ôm lòng hổ thẹn suốt cuộc đời, về đứa con không được thừa nhận, về những gì mà nó đáng lẽ nên được hưởng và tình cảm không thể trao đi trọn vẹn cho Amir.

Đặt chân lên đất Mỹ, lòng kiêu hãnh dân tộc mờ dần đi, Baba trở nên nhạy cảm hơn với ánh nhìn đôi khi lại chẳng có hàm ý gì cả. Ông chán ghét ánh mắt thương hại và việc phải làm quen với mọi thứ lại từ đầu khi đã xế chiều gặm cắn tâm hồn ông. Người đàn ông can đảm vật với gấu rừng trong hồi ức của Amir và thiên hạ, đến cuối đời vẫn không thể bộc bạch được nỗi hổ thẹn của bản thân. Chuyến hồi hương của Amir tìm kiếm Sohrab là khởi nguồn cho hy vọng và tìm kiếm liều thuốc cho vết thương mưng mủ của y, không phải để chữa lành, mà là để nó đóng vỉ và mong sao trở thành một vết sẹo. “Luôn có một con đường để tốt lành trở lại.” – Phải chăng Sohrab chính là con đường đó? Amir không biết, nhưng y biết rằng ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Sohrab giống Hassan cha nó đến đừng cử chỉ, từ cái điệu chống cằm suy nghĩ, hay cả ánh nhìn như khiến Amir quay trở lại một phần tư thế kỷ trước. Amir chưa bao giờ ngừng nhớ về quê hương. Từng câu văn đều thấm đượm cảnh vật Kabul của tuổi thơ y, từng trò chơi hay câu chuyện y và Hassan chia sẻ cùng nhau thuở ấy vẫn hiện lên trong tâm trí y mãi về sau trên đất Mỹ. Ngày trở về, Amir không ngừng tìm kiếm hình bóng xưa cũ trong từng viên gạch, cung đường, từng con người hay cả mùi hương của thịt cừu đã từng bao trùm cả con phố.

Và cánh diều, một hình ảnh của tự do, xưa kia nó bay cao như khát vọng được công nhận của Amir từ Baba, rồi rớt xuống mặt đất như thực tế và nỗi hèn nhát và lời dối trá để tự cứu lấy bản thân của cậu. Đúng là tình cảm của y và Baba đã trở nên tốt đẹp, nhưng dường như nó chỉ là phủ một lớp gạc lên vết thương đang lở loét mà không bôi thuốc, thời gian khó mà chữa lành được. Rất nhiều năm sau đó, cánh diều một lần nữa bay cao trên bầu trời, nhưng là ở nước Mỹ, vẫn là tự do, là hy vọng cho một nụ cười trở lại trên gương mặt trẻ thơ của Sohrab. Để sau bao ngày tháng dằn vặt và chôn giấu, Amir như được trở về những ngày tháng thơ ấu nằm trên đồi kể chuyện cho Hassan, được một lần nữa đắm mình trong ánh chiều tà quê hương và nghe từ người em ruột thịt của mình rằng một lần nữa “Vì cậu, cả ngàn lần rồi”.

Nguyễn Thị Khánh Ngân